Dưới đây là bản đồ của lục địa Dicathen do chính tác giả thiết kế ra và đính kèm vào chương này:
LƯU Ý VỀ TRÌNH TỰ ĐỌC: để có trải
nghiệm đọc tốt nhất, phần phụ truyện “Xung quanh các bại binh” này nên đọc sau
tập 8 của The Beginning After the End (hoặc đảm bảo rằng bạn đã đọc đến tập 868
trên tapas)
GÓC NHÌN CỦA JASMINE FLAMESWORTH
---- Phần 1 ----
Tỏng… tỏng… tỏng…
Tôi sẽ cần nói chuyện
với Dalmore về vụ rỉ nước ở đây, tôi nghĩ thế khi đang chịu đựng cơn đau âm ỉ
trong đầu mình. Tôi gắng lăn qua và kéo gối trùm lên đầu để che đi cơn mưa phùn
triền miên, nhưng thay vì chụp lấy gối, tôi lại quơ phải một nắm rơm ẩm.
Ngồi dậy thôi cũng
khiến đầu tôi quay cuồng, thì việc tập trung vào xung quanh lại càng khó khăn
hơn. Đôi mắt lờ đờ của tôi lướt qua cả căn phòng nhưng ánh nhìn mờ như bị lọc
qua đít chai gợi tôi nhớ lại một đêm rượu chè be bét quá mức. Tôi nhận ra cái
phòng này rồi. Nó là một nơi rộng mười feet vuông bao quanh bằng đá lạnh và ẩm
thấp. Một cánh cửa duy nhất có thanh chắn cho phép ra vào phòng giam. Thậm chí
còn không có cửa sổ, bởi vì cái nhà giam này nằm dưới đáy của pháo đài Bức Tường
(the Wall).
Mặc dù thiếu cửa sổ
nhưng các phòng giam luôn ẩm ướt. Tôi gắt gỏng trừng mắt nhìn dòng nước chảy đều
đặn từ các kẽ đá trên đầu. Nhìn vậy làm cổ và đầu tôi có cảm giác đau nhói lên
rõ ràng, và mắt tôi nhắm nghiền lại.
Tôi dụi lòng bàn
tay bẩn vào một bên hốc mắt, cố gắng xoa dịu cơn đau. Làm thế cũng giúp giảm
đau, một chút thôi.
Rõ ràng tôi không nhớ nổi mình đang ở trong
tình trạng thế nào vào lúc này. Trước đó tôi đã ở Quán trọ Underwall, kiếm sống
bằng cách canh chừng vài khách quậy quen thuộc khác, tôi nhớ tới nhiêu đó thôi.
Thông thường ở các quán trọ thì trong cùng một lúc sẽ không bao giờ có nhiều
hơn một kẻ gây rối cả, nhưng kể từ khi Hội đồng (the Council) sụp đổ, căng thẳng
luôn tăng cao.
Những người lính thậm
chí còn ở lại pháo đài Bức Tường - chủ yếu là vì không còn nơi nào khác để đi -
cũng tức giận và sợ hãi như những người khác. Khi một trong số họ có một ngày tồi
tệ và vài người uống quá nhiều, mọi thứ có thể trở nên bạo lực. Tôi đã tống cổ
vài tên lính như thế, cho chúng nó bay ra khỏi quán rồi tiếp đất bằng đầu. Kể từ
khi những người còn lại trong nhóm Twin Horns đã xuống nơi tị nạn dưới lòng đất
và tôi… ừm, tôi không đi theo họ.
À rồi, kí ức quay lại
đôi chút rồi. Tôi nửa nhớ nửa không cái khuôn mặt của một gã lính vũ trang nhìn
như khỉ đột, to mồm, lớn miệng.
Tôi dựa lưng vào bức
tường lạnh ngắt của phòng giam khi phân vân nhớ lại các sự kiện buổi tối hôm
trước. Đó là một ngày buồn tẻ nữa, và tôi đã nốc hơi nhiều rượu. Thằng lính kia
cứ không ngừng khoe khoang về việc hắn cứng cựa như thế nào.
Hắn đã nói gì ấy nhỉ?
Gì đó về thanh kiếm của hắn, tôi chắc luôn. Tôi dụi đầu ngón tay vào thái
dương, áp lực khi ấn giúp tôi giảm bớt cảm giác choáng váng vì say rượu.
Kí ức dần tập trung
lại, và tiếng khoe khoang ầm ĩ của thằng ngốc đó lại vang lên trong cái đầu đau
nhức của tôi. Hắn cứ lèm bèm tới lui về lũ Alacrya, và rồi hắn nói, “Ta cứ chờ
đám cặn bã Alacrya đến chím thử pháo đài Bức Tường đi, phải hông các chàng
trai? Tao sẽ đập chết cả đám bợn chúng, từng thằng một, và thậm chí còn hổng cần
rút thanh Mankiller (Sát Nhân) ra khỏi
vỏ, phải không?”
(Người dịch:
Trong bản gốc tác giả up lên Tapas: chỗ này tên thanh kiếm Mankiller)
Sát Nhân hả? Tôi nghĩ, tỏ vẻ chế
giễu và khiến một cơn đau nhói lên trong đầu. Tôi ấn gót bàn tay vào đôi mắt nhắm
nghiền của mình. “Vốn từ vựng trong đầu thằng ấy hạn chế đến mức nào để đặt tên
thanh kiếm của hắn theo mục đích thiết kế của kiếm?” Tôi tự hỏi bản thân, ra vẻ
chế nhạo mặc dù vẫn còn chếnh choáng. Giọng tôi vừa khan vừa yếu.
Tôi đã uống cạn cốc
bia một cách say sưa khi hắn ta nói về con dao làm bếp quá khổ của mình, và gã
súc vật to lớn này quay sang hỏi tôi có gì mà cười. Lẽ ra tôi chỉ cần xua tay
đuổi hắn đi, nhưng thay vào đó, tôi lại nói cho hắn biết chính xác thì tên
thanh kiếm của hắn nực cười đến mức nào. Để chắc chắn thêm rằng thằng đó hiểu rằng
tôi đang xỉa xói hắn, tôi bồi thêm rằng hắn ta không thể đập chết nổi một con
chó què chạy bằng ba chân với cơ thể to đùng rệu rã đấy, chứ đừng nói là một
pháp sư Alacrya.
Hình ảnh một người
đàn ông to lớn, kích thước dễ phải gấp đôi tôi, nằm bất tỉnh trên sàn hiện ra
trong tâm trí uể oải của tôi. Hắn rơi mất vài chiếc răng.
Luôn có một vấn đề
khi đập nhau với bọn lính. Đó là luôn có thêm vài thằng khác tới.
Có một người hiện
đang nhìn tôi qua cánh cửa có thanh chắn ở phòng giam, tôi ngớ người khi nhận
ra. Anh ta là một thanh niên nổi mề đay trên người, trạc tuổi tôi, với mái tóc
xù hơi đỏ. “Tôi giúp gì được cho anh đây?” Tôi hỏi, rồi ước gì tôi đã không hỏi
khi bên trong của tôi đang nổi đóa lên một cách nguy hiểm.
“Đại đội trưởng đã
ra lệnh thả cô, cô Flamesworth,” người
lính nói, nhấn mạnh tên tôi. Anh ta cười toe toét với tôi. “Đại đội trưởng cũng
đã yêu cầu tôi thông báo cho cô rằng đây sẽ là lần cuối cùng. Thêm bất kỳ… lần
đánh lộn nào nữa… và ông ấy sẽ đá liệng cô ra khỏi pháo đài Bức Tường. Không đủ
nguồn lực để nuôi giữ những kẻ hạ cấp như cô trong tù.”
Không, tôi nghĩ một cách cay đắng,
tôi cũng chỉ là một quý tộc mưu mô, phản
quốc như cha tôi.
(Người dịch: Chỗ
này tác giả viết in nghiêng chữ Flamesworth phía trên và cụm từ phía dưới là sự
cố tình, khi bị người lính nhắc đểu đến họ của mình, Jasmine tự nghĩ thành đoạn
in nghiêng)
“Hiểu chưa?” Người
lính hỏi, liếc mắt qua song sắt. Tôi gật đầu, thà làm vậy còn hơn mở mồm ra
nói.
Chìa khóa kêu lục cục
trong ổ khóa và bản lề kêu to khi cánh cửa được kéo mở ra ngoài. Tên lính đứng
sang một bên và hất đầu ra hiệu. “Vậy mời đi giùm, tôi không rảnh để trông trẻ
cả ngày.”
Tôi dựa vào bức tường
bẩn thỉu và lê bước cho đến khi đứng vững và loạng choạng bước ra khỏi cửa. Người
lính dẫn tôi xuống một hành lang dài với đầy những phòng giam giống hệt nhau, hầu
như các phòng đều trống rỗng, rồi đi lên một cầu thang đá hẹp ngoằn ngoèo, và đẩy
tôi tới một cánh cửa gỗ dày mở dẫn ra một con hẻm dưới chân pháo đài Bức Tường.
“Như tôi đã nói,
đây là lần cuối cùng. Hãy kiểm soát cảm xúc và cư xử bình tĩnh, hoặc rời mẹ nó
khỏi thị trấn, ô-kê?” Với những lời động viên cuối cùng đó, anh ta đóng sầm cửa
lại, và tôi nghe thấy tiếng thanh sắt kéo vào khớp khóa bên kia cửa.
Tôi dựa lưng vào mấy
tấm ván gỗ thô ráp của tòa nhà tạo thành mặt bên còn lại của bức tường con hẻm,
nghỉ ngơi một lúc trước khi bắt đầu lết chậm rãi về Nhà trọ Underwall, nơi tôi
đang ở.
Tôi đã băng qua một
vài người trên đường đi, nhưng quán trọ Underwall ở không xa, và không còn nhiều
người như chúng tôi ở pháo đài Bức Tường. Một vài người lính nhìn tôi chằm chằm
lạnh lùng, nhưng thật khó để phân biệt đó là vì trận ẩu đả lúc nãy, vì danh tiếng
xấu của tôi, hay vì họ phát bệnh khi phải làm việc miễn phí rồi chờ đến lượt chết
cho mỗi một ngày khốn kiếp này trôi qua.
Rốt cuộc thì cuộc sống
ở pháo đài Bức tường này là như vậy đấy. Các thành phố như Etistin, Blackbend
và Xyrus đều đã gục ngã. Rất có thể các thành phố lớn khác cũng vậy. Vùng
Elenoir hoàn toàn nằm dưới quyền kiểm soát của người Alacrya. Vùng Darv, theo
những gì tôi nghe được, đã lao vào cuộc nội chiến.
Xung quanh pháo đài
Bức tường, thì bọn Alacrya đã giành quyền kiểm soát. Chúng tôi được tha lâu như
vậy vì pháo đài này không còn giá trị chiến lược nào nữa. Bọn chúng không cần
phải vượt qua nó để đi bất cứ nơi nào khác, trừ khi có kế hoạch hành quân vào
Beast Glades, và bọn chúng đã chứng minh rằng bọn chúng có thể vào đó dễ dàng.
Không ai, kể cả
tôi, nghĩ rằng sự trì hoãn của chúng tôi sẽ kéo dài mãi mãi. Cuối cùng thì, sẽ
có một lực lượng đối phương hành quân tới pháo đài Bức Tường, hoặc thậm chí tệ
hơn, một trong những retainer của chúng sẽ đến để dọn sạch lính ở đây. Hầu hết
các đồn lính đã trống rỗng, bị dồn quân xuống Etistin để chết, và nhiều người
khác chạy trốn, cởi bỏ quân phục và vứt vũ khí xuống để họ có thể về nhà và hy
vọng có được cuộc sống tốt nhất dưới sự cai trị của lũ Vritra.
Tuy nhiên, không phải
ai cũng có nơi để đi.
---- Phần 2 ----
Cánh cửa kêu lên
khi tôi đẩy tới để bước vào quán Underwall. Dalmore ngó qua từ vị trí của mình
sau quầy bar. Ông ta đặt chiếc cốc đang lau xuống - ông ấy vốn rất tỉ mỉ với những
chiếc cốc, làm sạch chúng liên tục, lặp đi lặp lại - và chỉ tay ra cửa.
“Ồ không, lần này
thì hết nhé. Cô đi luôn được rồi.” Dalmore là một người đàn ông lùn và mập ở độ
tuổi trung niên. Ông ấy có nước da màu đất sét, hơi nhăn và mái tóc ngắn, sẫm
màu đang xõa nhanh ra khỏi trán. “Xin lỗi phải nói như này, Jasmine, nhưng những
việc cô làm được thì ít mà rắc rối cô gây ra thì nhiều.”
Tôi đảo mắt và gác
chân ngang qua một cái ghế đung đưa ở dãy ghế hàng quầy bar ngay trước mặt ông ấy.
Trên quầy bar có một dãy cốc mới đã được làm sạch, vì vậy tôi chộp lấy một cái
và lật ngửa nó lên, sau đó nhìn Dalmore đầy mong đợi. Lông mày ông ấy nhướng
lên cùng lúc với lại cái cau mày trở nên
sâu hơn, và không bước tới rót cho tôi một ly.
“Lý trí chút đi,
Dal à. Nếu ông không có tôi bên cạnh, ai sẽ ngăn những người lính đó cắt cổ ông
và ăn trộm bia của ông?”
Ông ta chế giễu.
“Cô sẽ là lý do khiến bọn chúng cắt cổ tôi. Tôi thật hạnh phúc khi có một thành
viên của nhóm Twin Horns bám trụ ở đây để theo dõi mọi thứ, nhưng cô đã khiến
tôi phải trả giá gấp ba lần những gì cô kiếm được cho quán. Không, chúng ta kết
thúc công việc với nhau rồi, Jasmine. Tôi muốn cô ra ngoài. Ngay bây giờ.”
Tôi bắt gặp ánh mắt
nghiêm khắc của ông chủ quán này. “Ít nhất thì em có thể có thứ gì đó để giải tỏa
cơn chếnh choáng này trước khi đi không ạ?”
***
Chỉ mươi phút sau,
tôi đang trèo lên bề mặt dựng đứng kế bức tường và hối hận vì điều đó. Chân tôi
trượt khỏi một tảng đá, làm cơ thể xóc mạnh khiến tôi xém ói, nhưng tôi nghiến
răng và đứng vững.
Đặt tay này lên tay
khác, và thỉnh thoảng ném ra một luồng khí để tự điều chỉnh bản thân nếu tôi mất
thăng bằng, tôi vừa buồn nôn vừa đi chậm đến mỏm đá nơi Arthur và tôi đã ngồi rồi
nói chuyện sau khi cậu ấy cãi nhau với Reynolds.
Cả hai chúng tôi đều
chìm trong những cơn bốc đồng tồi tệ nhất liên quan đến gia đình mình. Ít ra
thì hồi đó chúng tôi đã có gia đình. Sau cuộc nói chuyện đó không lâu thì
Reynolds chết và Arthur đã cho bắt giữ cha tôi.
Những giọt nước mắt
đầy tức giận, không được mời chào tự tích tụ nơi khóe mắt, nhưng tôi cố kiềm lại,
sau đó rít lên trong đau đớn và lấy mu bàn tay quệt vào môi. Mọi thứ đã trở nên
đẫm máu.
Tôi quay đầu lại để
hét lên một câu chửi thề, nhưng tất cả những gì có thể phát ra chỉ là một hơi
thở run rẩy.
“Giá mà chúng ta biết
trước mọi thứ có thể tồi tệ đến thế nào, phải không Arthur?” Gió ôm lấy lời tôi
nói và gửi chúng xuyên qua pháo đài Bức Tường và luồn vào vào vùng Beast
Glades.
Ở một nơi nào đó
bên dưới chỗ tôi đứng, trong phòng giam tốt nhất của pháo đài Bức Tường, cha
tôi ngồi đó và đang nâng niu niềm tự hào bị tổn thương của mình. Tôi không nghĩ
tật nói ngọng do chiếc lưỡi bị bỏng của bố tôi làm ông ta phiền bằng việc biết
rằng gia tộc Flamesworths đã bị tước mọi địa vị và của cải, ngay cả khi điều đó
không còn nghĩa lý gì bây giờ.
Tôi chỉ đến thăm
ông ấy có một lần, sau khi có tin tức về sự sụp đổ của thành phố Etistin và Hội
đồng. Tất nhiên, lão không muốn gặp tôi, vì vậy tôi tự thỏa mãn bản thân bằng
cách bắn những bình luận như gai như thép qua mấy cánh cửa có song sắt, kể cho
ông ta nghe về việc Senyir đã rời khỏi pháo đài Bức Tường vào ngay sau ngày ông
ấy bị bắt, vì không thể chịu đựng được sự xấu hổ, và việc mọi sự đột ngột như
thế nào khi dì Hester và tôi, thay vì bị ruồng bỏ, là những người duy nhất của
gia tộc Flamesworths không mất tất cả vì sự ích kỷ của ông ấy.
Tôi đã không trở lại
gặp ông ấy kể từ đó. Nếu Hội đồng không sụp đổ, có lẽ ông ta đã bị xử tử. Mặc
dù vậy, đại đội trưởng mới, Albanth Kelris, không muốn tự mình lấy đầu cha tôi.
Gió lạnh thổi qua
làm tôi nổi da gà dọc theo cánh tay và cổ để hở, khiến tôi co đầu gối vào ngực
rồi vòng tay ôm chúng. Không có Arthur để tạo kết giới bằng hỏa lực, giống như
không còn Arthur để đứng giữa chúng tôi và quân Alacrya nữa. Tôi tạo ra một luồng
không khí vô hình xoáy xung quanh tôi để giữ nhiệt cho cơ thể.
“Xin lỗi,” tôi nói
nhẹ nhàng, nhớ lại hình tượng Arthur không phải lúc bay vòng qua đầu chúng tôi,
rải cả chùm mưa phép thuật chết chóc xuống đầu hàng ngàn con quái mana, mà là
lúc cậu ấy trông như thế nào khi được tôi dìu dắt, cùng nhau phiêu lưu trong
vùng Beast Glades, một cậu bé mười tuổi đã khiến tôi cảm thấy như mình mới là đứa
trẻ.
Tôi không thể ngăn
mình tự hỏi điều gì sẽ xảy ra với lục địa Dicathen này nếu không có Arthur. Bọn
Alacrya đã chơi trội hơn chúng ta ở mọi lượt, đánh bại các chiến binh mạnh nhất
của ta rồi xử tử các lãnh đạo của ta thậm chí còn trước cả khi hầu hết mọi người
biết rằng ta sẽ thua trong cuộc chiến. Nếu không có cậu ấy, thì còn hy vọng chiếm
lại lục địa của chúng ta không?
Đó chính xác là lý
do tại sao tôi lùi lại khi những người khác chạy đi tham gia vào cuộc nổi dậy
ngầm. Helen, bằng cách nào đó, dường như tìm thấy chút hy vọng rằng những người
Alacrya có thể bị ném khỏi bờ biển của chúng ta. Tôi lắc đầu và kéo đầu gối vào
ngực chặt hơn. Helen đối với tôi như một người mẹ vậy, nhưng tôi cũng không thể
chia sẻ niềm lạc quan vĩnh cửu của cô ấy.
Hy vọng đã chết
cùng với Arthur.
Với suy nghĩ uể oải
này đang làm mờ tâm trí mệt mỏi của tôi, tôi rút một cái bình từ chiếc nhẫn chiều
không gian của mình, đổ một giọt rượu lên mặt đất cho Arthur, và uống một hơi
dài khao khát.
Tác giả: TurtleMe
Người dịch: Nightmoonlight
Ảnh minh họa:
Cái ghế wobble
stool (mà tác giả ghi nguyên văn là wobbly stool) Jasmine ngồi trước quầy bar của
Dalmore để xin rượu:
Ghi chú của người dịch:
_ Đã check in nghiêng (italic) từ bản gốc của tác giả.