(Tên gốc của chương 410: Good Humor)
GÓC NHÌN CỦA ARTHUR LEYWIN
“Con thú cưng quê Alacrya của
cậu đâu rồi?” lão Gideon hỏi, thận trọng nhòm quanh như thể sợ ả Lyra Dreide có
thể nhảy xổ ra từ bất kỳ hướng nào trong góc tối. Khuôn mặt ông ta đầy bồ hóng,
và tôi không thể không để ý thấy rằng lông mày lão lại mất tiêu thêm lần nữa,
và một phần tóc ông ta đã bị cháy sém. “Tôi không muốn để cô ả thấy cái này, vậy
nên cậu có thể nhốt ả retainer vào đâu đó và mong ả ta ở yên chỗ đó không?”
Emily đứng cạnh Gideon, khẽ
vẫy tay với tôi. Cô ta giờ có khuôn mặt tái nhợt và thâm quầng dưới mắt, nhưng
việc đứng được ở đây hẳn nói lên rằng sức khỏe cô ấy đã trở lại. Chỉ mới vài
ngày trôi qua kể từ khi thực hiện thí nghiệm ban ấn, và nếu không có ấn regalia
của Ellie, tôi đoán chắc rằng Emily sẽ mất thêm vài ngày nữa để hồi phục.
“Tôi dùng một trong mấy căn
hầm (vault) phù hợp ở Viện Earthborn để làm phòng giam,” tôi nói và bước tới dừng
lại trước mặt hai thầy trò nhà phát minh này. “Chị Mica và Regis đang trông chừng
ả trong khi cô ta kèm riêng cho em tôi về việc dùng ấn regalia.”
Lão Gideon thở hộc ra lúc
quay lưng lại và bắt đầu bước nhanh đi.
Chúng tôi đang đứng ở tầng
sàn thấp nhất của thủ đô Vildorial, xung quanh là khu nhà ở bằng đá được xây mới,
tuy sự tàn phá từ cuộc tấn công của các Scythe vào thành phố đã thành ký ức xa
xăm—ít nhất là về mặt vật chất bề ngoài, nhưng tôi vẫn thấy được cảm giác về mối
lo sợ bị tấn công ẩn trong những cái nhìn lén lút của người lùn và người elf
đang đi lại tấp nập, trong cả cái cách họ tránh nói chuyện phiếm và không bao
giờ rời tay xa khỏi vũ khí của mình.
Với những cảm xúc lẫn lộn
như thế, nhưng tôi vẫn thấy một số căng thẳng tan biến mỗi khi họ nhìn thấy
tôi, sự hiện diện của tôi như củng cố thêm lòng can đảm cho họ.
“Ít ra thì cậu cũng nên để cả
ba Lance canh chừng ả,” ông Gideon nói tiếp sau một hồi dẫn chúng tôi vào một
đường hầm hẹp mà tôi biết là nối với một số giếng mỏ cũ.
(Người dịch: “mining shaft”
là một thuật ngữ chuyên ngành mỏ và khai khoáng, tiếng Việt gọi là “giếng mỏ”,
là một cái hang đào thẳng đứng xuống đất để chui xuống khai thác các khoáng vật
rồi câu lên, để dễ hình dung hãy tưởng tượng cái giếng ở trong cái mỏ đá hay
cái hang)
“Tôi không sở hữu các Lance
để ra lệnh,” tôi chỉ ra theo kiểu nhẹ nhàng có tính đối thoại. Một cậu bé người
lùn vẫy tay với nụ cười toe toét cùng chiếc răng khểnh trên khuôn mặt tròn trịa,
và tôi giơ tay lên chào đáp lại, rồi theo lão Gideon đi vào đường hầm tối tăm
kia. “Hầu như lúc nào anh Bairon cũng ở cạnh ông Virion, và ông Virion thì bận
chăm sóc đồng bào mình. Với việc ta giành lại quyền kiểm soát lục địa Dicathen,
ông ấy có dịp tiếp cận với nhiều người elf hơn đang tỏa ra rải rác khắp lục địa.”
“Họ đang cố xác định xem còn
lại bao nhiêu người…” Emily nhẹ nhàng nói, giọng cô ấy méo đi vì xúc động.
Nỗi tuyệt vọng đeo bám dai dẳng
trong lời cô ấy nói như cào vào họng tôi, và tôi phải ho một tiếng để rũ bỏ nó.
“Giao tranh nổ ra ở Kalberk, và chị Varay đã đến đó hỗ trợ. Rõ là một số binh
lính tháo chạy từ Blackbend đến Kalberk và cảnh báo bọn ở đấy chuyện gì đang xảy
ra. Thay vì đầu hàng, đám thượng huyết tộc (highblood) phụ trách thành phố đấy
đã khóa chặt cửa và cố thủ.”
“Càng thêm lý do để dự án
kia của tôi tiến triển tiếp,” ông Gideon nhấn mạnh, bước đi nhanh chóng bất chấp
ánh sáng tối lờ mờ. “Cuộc chiến này vẫn chưa kết thúc đâu.”
Chưa, chưa đâu, tôi nghĩ,
cân nhắc xem chuyện gì sẽ xảy ra tiếp.
Tôi đã cố gắng đặt mình vào
vị trí của tên Agrona, tận dụng mọi thứ tôi biết về hắn để canh đo bước đi tiếp
theo của hắn. Nếu tên Kezess hoàn thành thỏa thuận của hai chúng tôi, thì tôi
hy vọng rằng chúng tôi sẽ chỉ chứng kiến trận cuối trong hàng loạt các trận
chiến kiểu quy mô tổng lực trên đất Dicathian, và nếu có thể, có lẽ là quá kỳ vọng,
thì chỉ mong tên Agrona đơn giản là gạt quách lục địa Dicathen đi cho đỡ rắc rối
vì không đáng giá và chuyển sự chú ý của hắn sang lục địa Epheotus.
Tuy nhiên, có một yếu tố cụ
thể khiến tuyến lộ trình đó khó mà xảy ra được: tôi.
Tôi vẫn không hiểu nổi làm
cách nào mà tên Agrona có được kiến thức về việc chuyển kiếp (reincarnation),
hay làm cách nào mà hắn có thể sục sạo khắp các thế giới để tìm ra Di Sản và
hai mốc neo mà hắn cần là tôi và Nico nhằm bộc lộ hết tiềm năng của cô ấy trong
thế giới này. Nhưng, bất kể hắn ta đã làm thế nào với những khám phá này, việc
thực hiện chúng cũng không diễn ra như hắn đã dự liệu. Tôi đã tái sinh nhầm lục
địa, nhầm cơ thể, và hắn bị buộc phải đi tìm một vật chứa (vessel) ở ngoài lãnh
thổ của mình. Thay vì trở thành một mốc neo hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của
hắn, tôi lại trở thành kẻ thù của hắn.
Và thông qua các hành động của
chính con gái hắn, tôi đã được ban cho loại sức mạnh duy nhất trên thế giới này
có khả năng chống lại cả hai thằng Agrona và Kezess.
Tôi không ảo tưởng rằng một
trong hai tên này sẽ bỏ qua điều đó. Tên Kezess sẵn sàng đổi chác sự giúp đỡ để
lấy kiến thức bằng việc hình thành một liên minh mong manh, nhưng còn tên
Agrona…
Tôi biết rằng tên chúa tể tộc
Vritra này không thể nào không muốn thứ tôi có. Ý tưởng chủ động đưa ra một thỏa
thuận tương tự với hắn—đổi chắc kiến thức về aether để lấy lời thề để yên cho
lục địa Dicathen—đã thoáng qua tâm trí tôi, nhưng sau khi cân nhắc kỹ lưỡng,
tôi cũng biết rằng hắn chẳng thể đưa ra lời thề nào mà tôi tin nổi. Và ngay cả
khi tôi quyết định mạo hiểm như vậy, tôi cũng không thể phó thác toàn bộ người
dân Alacrya cho số phận họ chỉ vì lục địa Dicathen đã được an toàn.
Bất kể hắn có mục đích gì với
Dicathen, thì rồi cuối cùng tên Agrona sẽ lại truy đuổi tôi thôi. Tôi không thể
chỉ ngồi khoanh chân ở thành phố Vildorial này và chờ chuyện đó xảy ra.
Hết suy nghĩ này đến suy
nghĩ khác chiếm lấy tâm trí tôi khi chúng tôi đi sâu vào các đường hầm khai mỏ
cũ.
Các đường hầm này trở nên
nóng và ngột ngạt, đất đá xung quanh chúng tôi tỏa nhiệt và không khí thì đặc
quánh mùi lưu huỳnh cháy. Chúng tôi đi qua một số mạch muối lửa đã khai thác cạn,
còn mấy cái giếng mỏ này bị bỏ hoang để làm đất đai màu mỡ hơn, chúng tôi đi tiếp
đến cuối đường hầm dẫn ra một hang động lớn hơn rất nhiều. Giàn giáo đã được lắp
vào các bức tường dựng đứng với các lan can treo trên trần nhà tuốt trên cao.
Những mạch muối lửa nho nhỏ vẫn nhìn thấy được ở vài nơi, nhưng ánh sáng tỏa ra
yếu ớt của chúng bị lu mờ bởi một loạt đồ tạo tác chiếu sáng (lighting
artifact) rực rỡ được đặt ngang dọc thành dạng lưới khắp mặt sàn.
Tôi ngạc nhiên khi thấy sáu
người cả đàn ông lẫn phụ nữ gồm bốn người tộc lùn, một người đàn ông tộc elf và
một phụ nữ tộc người đã đợi chúng tôi sẵn. Họ đang ngồi quanh một chiếc bàn làm
việc cũ nát và trò chuyện vu vơ, nhưng lập tức nhảy dựng đứng lên cả nhóm khi
thấy chúng tôi đến gần.
“Kính chào thầy Gideon,” một
trong mấy người lùn nói. Anh ta có một mái tóc xoăn sẫm màu và chòm râu dài đến
thắt lưng.
“Crohlb, tôi tin rằng anh đã
nhận được gói hàng gửi xuống đây mà không gặp rắc rối gì chứ?” Ông Gideon hỏi,
đi thẳng đến một chồng thùng kim loại đặt phía bên kia bàn.
“Chuyện,” gã người lùn cười
toe toét nói. “Thật vui khi cuối cùng cũng thấy những đồ tạo tác này được đưa
vào sử dụng.”
Gideon chụp cái thùng đầu
tiên, nhấc lên, ngay tức khắc không kéo nó đi nổi quá một hoặc hai inch, rồi
ông ấy quay sang hai người lùn khác. “Hai cậu, kéo cái này tới đây và mở nó ra
giùm tôi.”
Tôi tò mò quan sát hai người
lùn đồng loạt nhấc chiếc thùng trên cùng, chuyển nó sang một cái bàn cơ khí
(workbench) ở riêng một chỗ, rồi mở nắp ra. Một làn hơi nóng lung linh xuất hiện
trong giây lát trên miệng thùng đang mở, kèm theo cùng một loại ánh sáng màu
cam mờ làm thắp sáng mấy hốc tối trên trần hang.
Lão Gideon đeo tay một đôi
găng bằng da dầy, giống loại được sử dụng ở lò rèn, rồi thò tay vào trong hộp.
Tiếng kim loại cọ sát vào kim loại, rồi Gideon nhấc ra một trong mấy món đồ tạo
tác của ông ấy. Nó là một thanh kiếm có thân thẳng, có cạnh sắc ở hai bên lưỡi.
Những đường gân uốn lượn màu cam mờ cuộn xoáy qua lớp thép xám xỉn màu. Khi tôi
cúi xuống gần hơn để nhìn cho rõ, tôi có thể cảm thấy hơi nóng tỏa ra từ vũ
khí. Phần vành chắn (crossguard) ở cán kiếm khá là lớn, hơi cồng kềnh, với phần
chuôi kiếm kiểu bastard có thể cầm thoải mái bằng một hoặc hai tay.
(Người dịch: “crossguard” là
miếng chắn ngăn cách giữa lưỡi kiếm và chuôi cầm để khỏi trượt lưỡi kiếm vào
tay. “bastard-style hilt” là một kiểu kiếm của Châu Âu có phần chuôi có thể cầm
bằng một hoặc hai tay như chính tác giả đã giải thích ở trên. Hình minh họa có ở
dưới)
Tôi kích hoạt chiêu
Realmheart, và không gian quanh hang động chuyển sang sắc màu hỗn loạn vì các
vi hạt mana đều nhìn thấy được. Các vị hạt hỏa hệ bám vào lưỡi kiếm, nhảy múa
lên xuống dọc theo các đường gấn màu cam đang phát sáng ở thân kiếm. Một nguồn
mana mạnh mẽ cũng tỏa ra từ chuôi kiếm.
Ông Gideon chìa phần chuôi cầm
thanh kiếm ra để đưa nó cho tôi. Phần lót da sẫm màu khi chạm vào cảm thấy ấm
chứ không nóng. Tôi thận trọng lướt một ngón tay dọc theo lưng kiếm, nhưng rụt
lại ngay khi sức nóng của lớp thép phủ muối lửa thiêu đốt da tay tôi.
Lão Gideon khịt mũi một cái.
“Tôi đoán chắc mình phải dán thêm tờ giấy cảnh báo vào chuôi kiếm có nội dung:
ê này thằng ngốc, đừng có chạm vào lớp thép nóng.”
Tôi cười khúc khích khi lùi
lại một bước và vung thử lưỡi kiếm. Thanh này không phải là món chế tác thủ
công tốt nhất mà tôi cảm nhận được, đặc biệt là ở việc cân bằng các bộ phận của
thanh kiếm, nhưng vì đây chỉ là bản nguyên mẫu của ông Gideon, tôi mong đợi khi
chế tạo ra nhiều vũ khí hơn thì thiết kế sẽ được cải tiến.
“Việc pha trộn muối lửa vào
thép có hiệu quả như chúng ta đã thảo luận không?” Tôi hỏi trong lúc xoay kiếm
chém quanh và bổ dọc xuống tạo thành một vết chém hình vòm cung có hơi nóng kéo
theo sau.
Emily đáp lại bằng một cái
ngáp nửa vời. “Phương pháp dùng nồi nấu chảy kim loại đúng là thần kỳ. Việc đổ
muối lửa lan dần trên sắt nóng chảy cho phép ta thu được loại khoáng chất này đủ
nóng để hóa thành dạng lỏng và tăng hàm lượng carbon trong thép bằng cách truyền
muối lửa vào sắt giàu carbon làm cho muối cháy dính chặt vào thép, vậy là ta giải
quyết được hai vấn đề cùng lúc."
“Phải, phải, anh chàng thần
đồng lại đạt kỳ tích nữa,” lão Gideon càu nhàu, mặc dù tôi có thể nói rằng ông
ta không buồn tý nào.
Ở giữa bàn cơ khí là một máy
tạo khiên phép nhỏ hơn nhiều so với cái mà chúng tôi đã sử dụng trong quá trình
thử nghiệm vụ ban ấn. Ông Gideon kích hoạt nó bằng cách truyền một xung mana nhỏ
vào, sau đó lùi lại và nhìn tôi với vẻ chờ đợi. “Tiếp đi, chạm lưỡi kiếm vào lớp
khiên chắn. Tuy nhiên nhẹ nhàng thôi,” lão nhanh chóng đế thêm vào. “Hiện giờ
ta không cần sức mạnh kỳ dị của Lance đâu, tôi chỉ muốn cho cậu thấy điều này
thôi.”
Đảo mắt chán chường, tôi hạ
lưỡi kiếm xuống lớp khiên chắn nhìn như bong bóng trên mặt bàn. Khi lưỡi kiếm
tiếp xúc với rìa lớp khiên phép trong suốt, có tiếng rít lên và nổ lóp bóp, tia
lửa tóe ra. Tôi khẽ nâng lưỡi kiếm lên để ngắt tiếp xúc với lớp khiên, và tiếng
ồn giảm dần, mặc dù có một vệt khói mỏng bốc lên từ thanh kiếm.
Không cần đợi hướng dẫn
thêm, tôi dí lưỡi kiếm xuống lần nữa, lần này mạnh hơn. Lưỡi kiếm và lớp khiên
va chạm nhau tạo dao động, lượng mana chứa trong thân kiếm xung đột với lượng
mana tạo thành tấm khiên phép. Chuyện này kéo dài một giây, hai giây, rồi thì…
Có tiếng vo ve, đồ tạo tác
hình thành nên lớp khiên mất đi nguồn năng lương, và tự lớp khiên nổ “bóp” một
cái.
“Đây chỉ là một máy phát
năng lượng công suất rất thấp, nhưng cậu thấy chứ?” Ông Gideon nói, cặp mắt
sáng ngời. “Muối lửa, dù là ở dạng này, vẫn tiếp tục thu hút mana hỏa hệ, tạo
ra một lực đủ mạnh để chống lại—và nếu đủ mạnh, thậm chí xuyên thủng—lớp khiên
chắn của pháp sư đối phương.”
Tôi giơ vũ khí lên để quan
sát nó kỹ hơn. Có một loại cò nhấn (trigger) nào đó được gắn vào phần vành chắn
cồng kềnh. “Cái này làm gì?”
Ông Gideon cười như điên như
dại. “Có một thứ vũ khí đủ nóng để chém xé thịt và đủ khả năng chống lại khiên
chắn của kẻ thù mà không cần truyền mana vào là bước khởi đầu tốt, nhưng với một
người thuộc loại phi pháp sư (non-mage), dù có là một chiến binh tài năng đi
chăng nữa, vẫn sẽ gặp bất lợi trước một pháp sư augmenter. Vốn là loại pháp sư
có thể nâng sức mạnh cho cơ thể, cường hóa cơ bắp, tăng cường tốc độ di chuyển
lẫn phản xạ. Tính năng này có thể không hoàn toàn chống lại được sự mất cân bằng
lồ lộ như vậy giữa một pháp sư augmenter và một người lính thường không dùng được
phép thuật, nhưng chắc chắn nó sẽ tăng thêm trải nghiệm.”
“Tôi khá chắc rằng Thầy
Gideon đây chỉ muốn làm cách nào đó nhét cái ý tưởng ban đầu của ổng về súng thần
công vào vũ khí thôi,” Emily vừa thở vừa nói.
Lão Gideon cau có và lùa
Emily với sáu người phi pháp sư kia lùi lại. “Tiếp đi, bóp cái cò, nhưng chỉ
bóp một lúc thôi. Nó có hiệu ứng mạnh nhất khi được bóp cò lúc đang vung vũ
khí.”
Lùi lại để có nhiều chỗ trống
hơn giữa tôi và mọi người, tôi vung kiếm thêm vài cú, làm quen với trọng lượng
và độ cân bằng của thanh kiếm. Sau đó, trong lúc đang lia một cú chém ngang sắc
lẻm từ trái sang phải, tôi bóp cái cò cứng.
Mana tự truyền gấp từ tay cầm
vào lưỡi kiếm, và thanh kiếm bùng cháy. Cùng lúc đó, nó rung lảo đảo chúi mũi
kiếm về phía trước như thể bị đẩy từ phía sau. Tôi hấp thụ động lượng bị bùng
ra bất ngờ bằng cách xoay lưỡi kiếm một vòng, thả cò nhấn khi đang xoay người,
rồi nhấc nó lên trước mặt để có thể kiểm tra các hiệu ứng.
Các đường gân màu cam tỏa
sáng rực rỡ hơn, mặc dù lượng mana còn dư đang bị đốt cháy rất nhanh. Có lẽ chừng
hai mươi phần trăm lượng mana trữ trong tay cầm đã được dùng cho vụ bùng nổ vừa
rồi.
"Hả?" ông Gideon
nói, người như rung lên khi chuyển thế đứng từ chân trụ này sang chân còn lại.
“Lúc bóp cò trong khi đang chuyển động mạnh, dòng mana đột ngột truyền vào muối
lửa gây ra hiệu ứng đốt cháy dữ dội, hiệu ứng này có thể làm tăng tốc độ và sức
mạnh của đòn đánh, cũng như tạo ra vụ nổ dữ dội.”
“Hiện giờ nó hơi khó vung
chém một chút,” Emily nói thêm, “nhưng nếu được huấn luyện đúng cách, một người
lính thường loại phi pháp sư sẽ có thể canh được thời gian hợp lý và nhắm mục
tiêu để tung ra các đòn đánh có mức phá hoại lớn bằng thanh kiếm này.”
Lời cô ấy nói đã làm tôi để
ý tới sáu người không phải pháp sư đang im lặng quan sát từ khoảng cách an
toàn. Tôi liếc quanh khu mỏ rộng lớn mà trống rỗng và có cửa sập. “Chúng ta
đang làm gì ở đây?”
Ông Gideon vỗ hai tay vào
nhau. “Tôi mệt mỏi và phát bệnh với các bài kiểm tra thử trong phòng thí nghiệm
rồi, đó là lý do tại sao ta ở đây. Đã đến lúc chứng kiến mấy cục cưng này
hành động rồi.” Ông ta vẫy tay chỉ về phía mấy cái hộp còn lại trong khi hét
lên những người phi pháp sư kia. “Được rồi, kiểm tra với hình nộm nhé, cầm
trang bị của các người lên và sẵn sàng đi.” Một lúc sau, ông ấy nói thêm, “Và
nhớ duỗi người khởi động trước nhé! Điều tôi không muốn thấy nhất là đang thí
nghiệm mà ai đó bị chuột rút đâu.”
Tôi đang nhìn chằm chằm vào
ông Gideon, nhưng lão ta dường như cố tình phớt lờ tôi. Emily đi đến cạnh tôi,
dùng tay đang đeo găng lấy lại thanh kiếm. “Xin lỗi, ông ấy cứ ngoan cố vậy đấy.
Cậu không cần phải làm thí nghiệm này, nhưng thật ra cậu mới là sự lựa chọn tốt
nhất. Nếu có chuyện gì không ổn, thì rút cuộc cậu cũng tự hồi phục được… cơ mà
không phải tớ mong mấy người này sẽ giáng một đòn vào người cậu đâu.” Cô ấy mỉm
cười, quay nửa người đi, rồi lại nói, “Mặc dù nếu cậu để họ đánh trúng vài cú,
nó sẽ giúp ích cho thí nghiệm đấy.”
“Tớ nghĩ cậu cần tránh xa
lão Gideon này một thời gian, Emily à,” tôi càu nhàu, xoay cổ bẻ vai khởi động.
“Cậu dần bắt đầu nói chuyện giống lão ta rồi đấy.”
Hóa ra, sáu người phi pháp
sư kia đã được huấn luyện dùng loại vũ khí này rồi, vừa để kiểm tra thử chúng
cho lão Gideon vừa để chuẩn bị cho bài tập thực chiến. Crohlb và các người lùn
khác đã tham gia từ trước, nhưng ông Gideon đã cố tìm cả những người tình nguyện
là chủng người và chủng elf vốn có kinh nghiệm chiến đấu từ trước, để đảm bảo
hơi nóng và lực tỏa ra từ lưỡi kiếm sẽ không gây ảnh hưởng quá mức với nhóm người
về mặt di truyền vốn có cấu trúc xương nhẹ và da ít dày hơn.
Họ không mất nhiều thời gian
để sửa soạn và vũ trang trong lớp giáp bằng da dày được thiết kế để bảo vệ họ—không
phải là bảo vệ khỏi đòn từ tôi, mà là khỏi vũ khí mà từng người trong họ sử dụng.
Có hai thanh kiếm, mỗi thanh có thiết kế hơi khác một chút, ba cái rìu chiến và
một thanh đao dài (glaive). Như ông Gideon đã giải thích, hai người họ muốn xem
phản ứng của lớp thép được phủ muối lửa khi rèn thành các hình dạng khác nhau sẽ
như thế nào, cũng như việc thay đổi kích thước của các thanh tinh thể mana được
lắp vào tay cầm của mỗi loại vũ khí.
Tôi đang đứng ở tâm hang động
lớn, bao quanh là các chiến binh bọc giáp da, và khua khoắng cây gậy bằng kim
loại mà tôi rút ra từ mớ đồ bị vứt ở đây—một thứ “vũ khí” an toàn cho thí nghiệm
này hơn nhiều so với thanh kiếm tạo từ aether của tôi.
“Đừng nhẹ tay với hắn nhé
các người. Hãy nhớ rằng, hắn ta gần như bất tử, hắn chịu được! Còn giờ, bắt đầu
đi nào!” Đôi mắt Gideon lóe lên vẻ thèm thuồng từ chỗ mà lão và Emily đang đứng
được che chắn bằng lớp khiên phép tạo từ một máy phát mạnh hơn nhiều loại đặt
trên bàn lúc nãy. Cạnh lão ta, Emily im lặng ngồi xổm với cuốn sổ và cây viết
lông ngỗng trên tay, sẵn sàng ghi lại mọi thứ sắp xảy ra.
Tôi cúi chào các đối thủ với
vẻ kính trọng, rồi chuyển sang tư thế phòng thủ lơ đễnh.
Người đàn ông tộc elf di
chuyển trước, thanh đao của anh ấy chém xuống và bùng lửa ngay khi ông Gideon
ra lệnh. Nhưng lực từ vụ bùng nổ quá mạnh đối với người chủng elf vốn dáng mỏng
manh, đặc biệt là khi anh ta không thể cường hóa cơ thể mình bằng mana, và
thanh đao bị giật gạt sang một bên, đập xuống đất trước mặt Crohlb, người vừa
nhảy tới vung rìu chém vào chân tôi. Cậu người lùn này vấp phải phần cán đao và
ngã lăn ra đất.
Tôi xoay qua né khỏi mớ lộn
xộn này, gạt thanh sắt trên tay làm chệch hướng cú vung chém từ một người lùn cầm
kiếm. Tôi phải kiểm soát chuyển động của mình cho kĩ, cử động cho khớp với mức
tốc độ và sức mạnh từ các đối thủ, nếu không có nguy cơ tôi bị gãy nát xương hoặc
trật khớp khi chặn hay phản đòn.
(Người dịch: giải thích cho
dễ hiểu thì vì Art quá mạnh và nhanh nên nếu không để ý chuyển động và vung đòn
chậm lại, thì khi vung tay quá nhanh, để tránh chết nhóm luyện tập sẽ phải tự
hãm vội đà vung lại, sẽ gây dồn lực làm vỡ nát xương (shattering bones) hay trật
các khớp trong cơ thể)
Thanh kiếm phủ muối lửa chém
ăn vào cây gậy sắt trên tay tôi, rồi một vụ bùng cháy gây nổ làm cháy xém mặt
tôi. Thanh kiếm bổ xuống, cắt đôi vũ khí của tôi thành hai mảnh và lướt qua lớp
aether bao phủ da tôi một cách vô hại.
Với một thanh sắt ngắn cầm
trên mỗi tay, tôi đập thanh kiếm chệch sang một bên và bước vào tầm chém của
cây rìu bổ xuống, để nó bật ra khỏi cầu vai không phủ giáp của mình mà không cần
cố chặn lưỡi rìu và thay vào đó, tôi đẩy cánh tay vào ngực người đang vung rìu
với lực không đủ mạnh để gây thương tích, nhưng quá dư để làm anh ta ngã ngửa
ra sau.
Người phụ nữ tộc người nhảy
qua chỗ anh người lùn vừa ngã xuống và dùng cả hai tay cầm kiếm bổ xuống chỗ
tôi. Tôi bắt chéo hai thanh sắt ngắn trong tay ngang đầu thành hình chữ X để chặn
lưỡi kiếm kẹp vào giữa chúng, nhưng người phụ nữ này đã bóp cò để dùng muối lửa,
tạo ra một vụ nổ bùng lửa lên và bung ra một luồng lực xung kích nhằm đè lưỡi
kiếm bằng thép nóng như thiêu đốt kia xuyên qua thanh sắt còn lại tôi đang giơ
lên chặn.
Lùi lại một bước ngắn, tôi cố
tình để mũi kiếm đang phát sáng cà lướt qua trước ngực. Nó làm tôi ngạc nhiên
khi xuyên qua lớp aether mỏng bao phủ cơ thể tôi, rạch một đường ngang trước áo
sơ mi và cứa vào da thịt tôi trước khi đâm sầm xuống đất dưới chân tôi, cắm thẳng
xuống lớp đá cứng.
Đôi mắt của người phụ nữ mở
to ra, và cô ấy bắt đầu lầm bầm gì đó mà tôi chắc chắn lời xin lỗi nhưng không
vang lên thành tiếng. Cái cò nhấn vẫn đang bị bóp và bị cô ta nắm chặt bằng cả
hai tay thế rồi mana nhanh chóng tích tụ lên lưỡi kiếm cho đến khi lưỡi kiếm
rung lên. Trước khi tôi kịp cảnh báo cô ấy buông cò nhấn ra, thanh kiếm đã phát
nổ.
Một cơn bão lửa và mảnh thép
nhấn chìm cả lũ chúng tôi.
Lao người về phía trước, tôi
vòng hai cánh tay ôm lấy người phụ nữ trong khi cô ấy lắc lư người ngã ra sau,
nhấc bổng cô ta lên và kéo cơ thể bọc giáp da của cô ấy sát vào người tôi. Những
đường chạy tạo từ aether hiện ra khi chiêu God Step được tôi kích hoạt kêu vo
ve còn trước khi tôi kịp nhìn, và tôi bước vào những đường chạy này..
Chúng tôi xuất hiện sau một
ánh chớp lóe lên với một tia sét tím bao quanh người trong khi ngọn lửa màu cam
trắng từ vụ nổ của thanh kiếm vẫn đang bùng phát phía sau chúng tôi. Những mảnh
thép nóng găm vào đất đá khắp phòng, chúng nóng và bay nhanh đến mức cắm sâu
vào tường, sàn và trần hang đều bằng đá cứng.
Những người khác lao ra khỏi
vụ nổ, cố tìm cách che chắn theo cách tốt nhất mà họ có, lớp áo giáp da dày
giúp bảo vệ rất tốt khỏi cái nóng, nhưng rất ít khả năng chống lại mảnh kiếm vỡ
sắc như dao cạo.
Tiếng thở hổn hển hoảng loạn
của người phụ nữ khi cô ấy cố xé toạc chiếc mũ bảo hộ đang đội trên đầu khiến
tôi chú ý đến cô ta. Cô ấy đang cào cào vào chiếc mũ bảo hiểm bằng một tay
trong khi tay còn lại đặt trong lòng run rẩy dữ dội. Tôi giúp cô ta mở chốt mũ
bảo hiểm, và cô ấy ném nó sang một bên. Mặt cô ấy đỏ bừng vì cố sức và nhiệt
nóng từ bộ giáp, nhưng mặt cô ta bắt đầu tái nhợt đi nhanh chóng khi nhìn chằm
chằm vào người tôi với nỗi khiếp đảm.
Nhìn xuống thân, tôi mới nhận
ra người mình chằng chịt những vết thương nhỏ. Trong lúc tôi đang quan sát, vết
cứa từ mũi lưỡi kiếm của cô ấy rạch lên ngực tôi và nhiều vết thủng nhỏ hơn đã
lành lại, một số trường hợp vết thương lành lại đang đẩy những mảnh kiếm nhỏ
găm trên người tôi ra ngoài, chúng kêu lảnh cảnh khi rơi trên mặt đất dưới chân
tôi.
“Sau hết thảy các buổi huấn
luyện của chúng ta, gừ,” Ông Gideon càu nhàu, bước ra khỏi lớp khiên chắn. “Quy
tắc số hai, không giữ ghì cò nhấn!”
“C-có ai bị thương không?”
Emily hỏi một cách yếu ớt, nhìn chằm chằm vào cái hố trên mặt nền đá chỗ thanh
kiếm của người phụ nữ cắm xuống ban nãy.
Tôi nhìn quanh nơi đây,
nhưng có vẻ như không ai bị thương nặng. Dường như tôi đã hứng vào người một lượng
mảnh vỡ đáng kể, vì vậy ngay cả người phụ nữ tộc người cũng chỉ bị các mảnh vỡ
gây nên những vết cắt nông và trầy xước sơ bên ngoài, mặc dù nhìn những lỗ bị
cháy trên áo giáp của cô ta tôi có thể nói rằng cũng có một vài mảnh suýt dính.
Sự việc xấu đi quá nhanh,
tôi cay đắng nghĩ, lắng nghe các chiến binh còn lại gọi nhau để đảm bảo rằng mọi
người đều ổn. Nếu tôi nghĩ nhanh hơn, tôi có thể ép các vi hạt mana nổ nén vào
nhau (implode) vào thay vì nổ tung ra ngoài (explode), hoặc thậm chí ổn định
thanh kiếm để ngăn chặn sự cố này hoàn toàn.
Đây là một vấn đề mà tôi đã
lờ mờ nhận ra từ trước nhưng chưa thật sự để tâm, nhưng giờ đã được nhấn mạnh bởi
sự cố này. Khi tôi có thêm nhiều chiêu thức nữa như Realmheart, việc tối ưu hóa
từng cái trong chiến đấu trở nên khó khăn hơn. Mặc dù tôi có thể dịch chuyển tức
thời ngay lập tức bằng chiêu God Step, nhưng thời gian phản ứng và thậm chí
ngay cả nhận thức của tôi vẫn bị giới hạn bởi những đặc điểm tính thể chất và
rèn luyện của bản thân.
Một tiếng rít lên đau đớn
thu hút tôi chú ý tới người phụ nữ chủng người này, vốn đang run rẩy cố tháo
đôi găng tay nặng trịch của mình ra. Nhẹ nhàng, tôi giữ những ngón tay cô ta và
nới lỏng đôi găng ra giùm. Bên trong đôi găng, bàn tay của cô ta đã chuyển sang
màu tím.
“Gẫy tay,” tôi nhẹ nhàng
nói. “Nhưng không phải là không chữ được. Chúng ta có những pháp sư hệ emitter ở
Vildorial có thể chữa lành loại vết thương này mà không gây đau đớn.”
“Emily!” Ông Gideon hét lên
khi bước tới. Ông ta cắn môi khi nhìn chằm chằm vào vết thương và đợi Emily vội
vã chạy tới, một tay cầm sổ và bút, tay kia chỉnh lại gọng kính khi chúng xóc
lên nảy xuống trên sống mũi. “Mang cô Shandrae đây đến chỗ người trị thương
(healer), được chứ? Tôi cho rằng lẽ ra ta nên có một pháp sư emitter trực sẵn ở
đây để đề phòng, nhưng rồi tôi không ngờ rằng một trong số mấy người quên các
quy tắc ngay tức khắc như vậy và…” Lão Gideon ngừng lại khi cả tôi, Shandrae,
và Emily đều nhìn lão đầy ẩn ý. “Blè, đưa tôi cái đó,” ông ta nói rồi rút cuốn
sổ khỏi tay cô ấy. “Mấy người còn lại, trở về chỗ của mình. Chúng ta tiếp tục lần
nữa.”
Emily choàng tay qua người
Shandrae và giúp cô ta đứng dậy. Gương mặt người phụ nữ này cuối cùng cũng chuyển
sang xanh, và cô ấy không thể rời mắt khỏi bàn tay lẫn cổ tay bị dập nát của
mình.
Lão Gideon nói với giọng giận
dữ thiếu kiên nhẫn: “Và vì tình yêu với cuộc sống này, đừng bóp cứng cái cò nhấn
chết tiệt đó nữa,” rồi nhìn Emily và Shandrae loạng choạng đi ra khỏi hang.
***
Cuộc thử nghiệm với vũ khí
phủ muối lửa chỉ kéo dài hơn một giờ và trong suốt khoảng thời gian đó không
còn tai nạn nào nữa. Sau khi rút ra kết luận, cung cấp ý kiến phản hồi của tôi
cho ông Gideon và chúc cho mọi việc còn lại suôn sẻ, tôi vội vã quay lại thành
phố để kiểm tra con em gái.
Để con bé với một ả retainer
phe kẻ thù thật không thoải mái, dù là ở phía bên kia phòng giam với cánh cửa
có khả năng ức chế mana và được canh giữ bởi một Lance cùng cậu bạn đồng hành của
tôi đi chăng nữa. Tuy nhiên khi tôi quay lại, có tiếng Ellie cười rú lên, tiếng
ôn của con nhóc vang vọng khắp các hành lang của Viện Earthborn.
Khi tôi quẹo qua góc đường dẫn
đến phòng giam của ả Lyra, tôi thấy Ellie đang ngồi khoanh chân trên tấm thảm
phía trước phòng giam, co quắp người vì vui đến ná thở, trong khi Regis ưỡn ngực
lên đi bằng hai chân sau, vùng vẫy như thể cậu ta đang đau khủng khiếp. Còn chị
Mica đang thở hổn hển, nắm tay dọng vào tường và dường như cũng đang vui hết nấc.
“Không Regis, đó là cách duy
nhất rồi,” cậu đang nói ầm ĩ bằng giọng trầm đậm chất hoạt hình. “Tôi chỉ cần
đun cả người trong dung nham, tôi không thể làm được điều này nếu không có—” Cậu
ta nhìn thấy tôi và đột ngột dừng lại, rồi từ từ khuỵu xuống bằng cả bốn chân.
“Ô, này, chào sếp…”
Ellie mở mắt ra, con bé chỉ
vào tôi và cười to đến nỗi nước mũi trào ra. Chị Mica thở hắt mạnh ra thô thiển,
và sau đó cả hai còn cười lớn hơn.
Khi đến đủ gần để tôi và ả
Lyra nhìn nhau qua song sắt phòng giam, tôi cau mày nghiêm túc với cô ta. “Cô
đang chọc ngoáy não bọn họ hay làm gì khác với chú phép âm thanh của mình à?”
Ả Lyra đang đứng khoanh tay
dựa vào tường ở đằng trong, chỉ nhún vai. “Không, thú triệu hồi của ngài đang
chứng tỏ khả năng tấu hài quá trớn của nó chứ tôi không làm gì cả. Tôi rất vui
khi khám phá kĩ thêm ấn regalia của em ngài, nhưng tôi sẽ không vờ là không
thích nghe mấy câu chuyện của hắn về khoảng thời gian ngài ở trong Khu Tàn Tích
(Relictombs) đâu. Ngài thực sự đã thấy và làm vài chuyện kỳ lạ đấy, thưa Quan
Quản Trị Leywin.
Chị Mica đang cố đứng thẳng
lên và kìm nén tiếng cười khúc khích của mình. Quai hàm chị ta nghiến chặt lại,
nhưng cả môi và cơ mặt đều co giật liên tục. Chị ta chào tôi cho có lệ và nói,
“Chào mừng quay lại, Tướng quân Khổ dâm. Tù binh Alacrya này đã cư xử tốt đến bất
ngờ.”
“Cảm ơn, chị Mica,” tôi nói
với một tiếng thở dài thấu xương. Còn với Ellie, tôi hỏi, “Em đã biết thêm được
gì mới chưa?”
Quẹt đi nước mắt trên mặt,
con nhóc cười toe toét với tôi. “Em nhận ra vài thứ, em nghĩ thế. Nó khó—không
khó, lạ lắm. Giống như… học lại cách dùng phép thuật từ đầu vậy. Nhưng mọi sức
mạnh có đây rồi, sẵn sàng đáp lại khi em muốn dùng. Chị Lyra nghĩ em sẽ cần
phát triển dần cái ấn regalia này.”
Ả Lyra bước đến phía trước cửa
phòng giam, đứng ngay sau mấy chấn song sắt. “Tôi không hoàn toàn chắc cụm từ ‘ấn
regalia’ còn là thuật ngữ chính xác nữa hay không. Khả năng của ngài đã tác động
đến lễ ban ấn, nó thì…” Lời nói cô ta tắt dần khi lắc đầu, đôi môi cong lên
nhăn nhó. “Chúa tể Tối cao sẵn sàng tự nhổ sừng mình ra để có thể làm được điều
mà ngài làm được, tôi chắc kèo luôn đấy. Ấn mà cô bé nhận được rất mạnh mẽ, vượt
xa những gì tôi từng thấy ngay cả với mấy cái ấn mà các retainer khác hay thậm
chí là chính các Scythe nhận được. Thành thật mà nói, ấn đó là quá nhiều với cô
bé.
“Mục đích của việc sử dụng
thành thạo một ấn loại thấp hơn trước khi nhận được một ấn crest, emblem hay
regalia là để xây dựng dần sức mạnh và tài năng phép thuật của một pháp sư. Hầu
hết các pháp sư không bao giờ nhận được ấn emblem, nhận ấn regalia thì còn hiếm
hơn. Em ngài, à thì, tôi không chắc cô bé có thể dùng nổi được cái ấn regalia
này đúng cách không. Nó sẽ đòi hỏi một lượng sức mạnh đáng kể và lõi mana phải
được tinh luyện sạch để điều khiển được cái ấn này hoàn toàn.
“Ngoài chuyện đó ra, như tôi
đã cố nói rõ với cô bé, ấn này cũng khá nguy hiểm. Nếu cô bé gắng quá sức, cái ấn
này có thể rút sạch mana trong lõi và khiến cô bé bị tàn phế.”
Tôi không trả lời ngay tức
khắc, thay vào đó dành thời gian để tiêu hóa những lời ả Lyra nói trong khi
nhìn xuống em gái mình. Mái tóc màu nâu tro của con bé—tôi nhớ là cùng màu với
cha chúng tôi—hơi rối bù. Lúc ả retainer đang nói, biểu cảm vui vẻ từ từ biến mất
khỏi gương mặt của bé Ellie, thay vào đó là một nét cau mày nhỏ nhưng kiên quyết,
khiến con bé trông giống mẹ của chúng tôi hơn.
Tôi không thể không nghĩ tới
hai điều trong đầu, về Ellie và vụ ban ấn nhìn chung. Việc ngay lập tức có thể
thanh lọc lõi cho một pháp sư—có khả năng là bất kỳ pháp sư nào—đồng thời cấp
cho họ quyền dùng một chú phép mạnh mẽ có lẽ sẽ thay đổi cách lục địa Dicathen
này nhìn nhận về phép thuật. Chúng tôi có khả năng sản sinh ra ào ạt các pháp
sư ưu tú với tốc độ trước giờ chưa từng có. Tuy nhiên, để có được kết quả tốt
nhất từ quá trình này, tôi cần dành một khoảng thời gian đáng kể ở gần mỗi
pháp sư.
Và tôi chỉ là một người duy
nhất, hợp lý hóa mọi thứ mà nói, biết rằng điều này sẽ làm hạn chế đáng kể tính
hữu dụng tổng thể của thứ công cụ ban ấn này, ít ra là ngay lúc này. Ngoài ra,
tôi đã dành đủ thời gian của bản thân ở lục địa Alacrya để xem sự hiện diện của
những mẫu chú phép (spellform) cỡ này có thể vượt mức gây áp đảo lên nền văn
hóa phép thuật của chúng ta như thế nào. Chắc chắn có những lợi ích, nhưng cũng
có những nguy cơ tiềm ẩn rất đa dạng và lan rộng nên khó có thể thấy được bức
tranh toàn cảnh.
(Người dịch: Art đang đề cập
đến việc cả lục địa Alacrya nhốn nháo xôn xao khi đám học sinh của Grey liên tục
nhận được các ấn hiếm từ emblem tới ragalia và nó ảnh hưởng tới đời sống riêng
tư từng người lẫn cả nền văn hóa dùng phép thuật bị xáo trộn)
Tôi cũng cảm thấy tội lỗi
sâu sắc vì đã cho phép bé Ellie tham gia vào vụ ban ấn. Tôi đã trao cho con bé
sức mạnh này, dù biết rằng nó có thể nguy hiểm, nhưng việc xác nhận rõ ràng rằng
con bé có thể dễ dàng tự gây hại cho bản thân bằng mẫu chú phép này nhắc nhở rằng
tôi phải chịu trách nhiệm cho bất cứ chuyện gì có thể xảy ra với con bé.
Tôi nhìn sâu vào đôi mắt màu
nâu hình quả hạnh của bé Ellie. Ngoài vết nhăn nhẹ trên bờ môi, chính đôi mắt của
con bé đã bộc lộ chiều sâu của sự trưởng thành—một chiều sâu mà người ta cảm thấy
quá sâu so với độ tuổi của nó.
Tôi nhận thức được rằng,
trong thời gian tôi vắng mặt, con bé đã phải đứng lên vì mẹ chúng tôi, vì
Dicathen, ở mức độ mà tôi ước gì con bé không phải làm thế. Tuy nhiên, tôi vẫn
nghĩ về nó như một đứa trẻ. Và chính vì thế, tôi đã không cho phép mình tin tưởng
con bé, đặc biệt là với sức mạnh mới khám phá ra này. Con nhóc rất liều lĩnh,
chân thật và đã hơn một lần chứng tỏ rằng bản thân vô trách nhiệm, nhưng nó
cũng là đứa nhạy cảm, can đảm và dám hy sinh thân mình.
Con bé đã trải qua quá nhiều
thứ nên không thể xem là một đứa trẻ… nhưng nó vẫn còn quá trẻ để mang gánh nặng
của người lớn. Nhưng lúc đó tôi đã biết rằng tôi… chúng tôi không còn lựa chọn
nào khác. Con nhóc không còn coi mình là một đứa trẻ nữa, và tôi cần phải ngừng
đối xử với nó như một đứa trẻ.
Thay vì liên tục chống lại
mong muốn của con bé khi cố ép nó vào vai trò mà tôi cảm thấy yên tâm, tôi cần
lùi lại sau và cho phép con nhóc phát triển theo hướng mà nó thấy thuận tiện và
hài lòng nhất.
Cô ấy cần một sự hướng dẫn
thay vì sự chống đối.
Tôi cố nén tiếng thở dài và
nặn ra nụ cười trên môi, rồi đưa tay ra kéo em mình đứng dậy. Con bé chụp lấy
tay tôi, nhảy bạt lên đầy hăng hái.
“Lại đây bé El. Đi với anh một
lúc.”
Tác giả: TurtleMe
Người dịch: Nightmoonlight