4/1/23

Chương 399: Rẽ lối

(Tên gốc của chương 397: A Path Diverged)

GÓC NHÌN CỦA ALDIR

Không khí ở vùng Xavan Cerulean, quê hương của Gia Tộc Thyestes, lúc nào cũng ấm áp và khô ráo, nhưng luôn có một làn gió nhẹ thổi qua những cánh đồng cỏ, làm cho những ngọn cỏ cao gồm hai màu lục-lam trông giống lưỡi kiếm đang nhảy múa như sóng biển. Chúng tôi gọi nó là Ngọn gió của Chiến binh (Warrior’s Wind), một hiện tượng phép thuật được tạo ra qua hàng thiên niên kỷ để đảm bảo rằng những người chủng pantheon (chiến thần) đang tập luyện ở vùng xavan nóng bỏng sẽ luôn có một làn gió để làm mát họ.

(Người dịch: xavan (savanna) là các vùng đồng cỏ rộng lớn không cây cối)

Tôi có thể thấy cái khu vực xavan đấy trải dài ra nhiều dặm dù nhìn ra bất kỳ hướng nào từ chỗ tôi đang đứng vắt vẻo, cao hơn đỉnh của những mái nhà lợp ngói xanh của làng Battle's End. Ngôi làng rộng lớn trải dài ra của chúng tôi như mọc lên thành các mảng màu xanh đỏ ở trung tâm của vùng Xavan Cerulean, và là nơi mà mọi người tộc pantheon coi như quê hương, kể cả những người từ các thị tộc (clan) khác chưa bao giờ sống ở đây. Đây là vùng cơ yếu (heartland) của tất cả các tộc trong chủng của chúng tôi.

(Người dịch: Heartland là từ thường hay dùng trong địa chính trị, ám chỉ thuật ngữ “vùng đất trái tim”)

“Với cái cách mà đôi mắt cậu khi thấy vùng xavan rồi nhìn nó như muốn ăn tươi nuốt sống, thì hãy thứ lỗi cho bất kỳ ai khi cho rằng cậu nghĩ sẽ không bao giờ thấy nó nữa, bạn cũ à.”

“Đồng cảm với tôi bằng những lời như vậy chẳng an ủi tôi tý nào, Chúa tể Thyestes à,” tôi nói, rút ánh mắt mình ra khỏi đường chân trời thẳng tắp để tập trung vào vị chúa tể quá nhiều mắt này, “nhưng tôi sợ rằng có thể như vậy thật.”

Bốn con mắt trực diện của Ngài Ademir đều tập trung vào tôi, trong khi những con mắt ở hai bên đầu ông ấy đảo nhanh chóng, theo dõi mọi chuyển động dù là nhỏ nhất quanh chúng tôi. “Vậy cậu đã sẵn sàng cho tôi biết lý do cậu rời khỏi Lâu đài Indrath chưa?”

Tôi ổn định hơi thở và chỉnh lại thế đứng đang sắp trượt. Tôi nghĩ rằng đứng mà trượt như thế một dấu hiệu của sự hỗn loạn trong nội tâm tôi.

Ngài Ademir và tôi đều đang đứng trên cao so với mặt đất, giữ cân bằng cẩn thận trên đỉnh những chiếc cột cao chót vót mà diện tích bề mặt tiếp xúc để đặt chân không lớn hơn ngón út của tôi. Một vòng xoắn ốc tạo thành từ các cây cột như vậy cắm đầy mặt sân chính của làng Battle's End. Cây cột ngắn nhất và bề mặt rộng nhất nằm ở phía ngoài của vòng xoắn, và chúng ngày càng mỏng hơn và cao hơn cho đến khi tới cây cột ở tâm, cột ấy mảnh như một cây kim vậy.

Chúng tôi đứng cách tâm vài cột, đối diện với nhau. Ngài Ademir chọn đứng trên một cây cột cao hơn, mỏng hơn một chút so với cột tôi đứng, và trong khi tôi có thể chọn cây cột cao hơn mà đứng, thì việc đứng từ trên cao hơn nói xuống chỗ Chúa tể đứng thấp hơn sẽ bị xem như một hành động thiếu tôn trọng.

Như truyền thống trước giờ, các pantheon thứ hạng cao hơn cũng chọn tư thế đứng tấn (training pose). Ademir đã chọn tư thế vũ công (blade-dancer) tương đối đơn giản. Để hợp với ngài ấy, tôi giữ thăng bằng trên một ngón chân trái cong lại tiếp xúc với diện tích bề mặt cột đang đứng, các ngón chân chân còn hướng xuống đất. Hai bàn tay tôi được giữ yên trước thân, một lòng bàn tay úp xuống ngang lõi, lòng bàn tay thứ hai ngửa lên trước bụng.

(Người dịch: giải thích cho các bạn hiểu thế đứng tấn rèn luyện kì quặc này: Mớ cột cao được dựng giữa sân chung rộng lớn của làng Battle’s End, nhìn từ trên xuống, các cột dựng thành hình xoắn kiểu trôn ốc, và cột càng vào tâm thì càng cao và càng mỏng, tức là với cột nằm ở tâm vòng xoắn thì diện tích tiếp xúc để đứng nhỏ bằng đầu kim. Aldir chọn một cái cột sát gần tâm và đứng tấn băng cách dùng một ngón út chân trái chịu lực cả cơ thể, nhưng ngón út được co gập lại và dùng vị trí co lại đó tiếp xúc bề mặt ở đầu cột để chịu lực toàn cơ thể. Còn tư thế vũ công của Ademir có hình minh họa cuối chương)

“Sự phục vụ của tôi với Kezess đã kết thúc,” tôi nói sau một hồi lâu. Lời tuyên bố này kèm theo một khoảng dừng khá lâu khác trong khi tôi cân nhắc lựa lời. “Tôi không phải là một thanh kiếm để vung mà không cân nhắc.”

Ngài Ademir thay đổi thế đứng tấn rất nhanh chỉ để búng con ruồi săn có độc (venomous hunter fly) đang bay bên cạnh, rồi chẳng khó khăn gì quay lại thế đứng vũ công ban nãy. “Rất ít asura còn sống có thể nhớ khoảng thời gian trước khi gã Kezess Indrath tập hợp Bát Đại Tộc (Great Eight) và giúp các gia tộc hòa giải bất đồng. Lục địa Epheotus đã từng là một nơi của chiến tranh và chết chóc vô tận, một thế giới hoang dã và chưa được thuần hóa đầy rẫy những thảm họa biết đi như ngọn núi sống Geolus. Người ta nói rằng chính vùng Xavan Cerulean này đã bị san phẳng bởi những người pantheon sử dụng tuyệt kĩ World Eater trong trận chiến chống lại tộc dragon (rồng) và tộc hamadryad (người cây).

“Và gã Kezess đã ghi công lớn cho việc kết thúc thời đại đó, cấm sử dụng tuyệt kĩ World Eater vì những hậu quả đã xảy ra từ nó. Vì dùng nó mà gần như đã phá hủy cả gia tộc ta, chủng tộc của chúng ta và mọi nơi trên Epheotus. Nó không chỉ phá hủy thế giới, mà còn phá hủy luôn cả người niệm phép đó, và do đó các pantheon ở thời ấy nhận ra rằng thà sống trong cảnh khúm núm còn hơn là chết giữa những tàn tích nát vụn trong thế giới của chúng ta.”

(Người dịch: tác giả nói ẩn ý bằng từ “break” nên chúng ta không biết rõ là phá hủy người niệm (caster) là chỉ phá hủy cơ thể hay tâm hồn hay cả hai)

Khi sự thật được tiết lộ với tôi đột ngột, thì việc biết chuyện này đã làm ruột tôi lạnh buốt như bị bệnh. “Chúa tể tộc Indrath từ chối cho tộc chúng ta quên đi kỹ thuật đó. Hắn ta yêu cầu ít nhất một patheon của tộc Thyestes vẫn giữ lại kiến ​​thức về tuyệt kĩ World Eater, để hắn có thể dùng nó nếu cần thiết.”

Ngài Ademir không trả lời gì cả. Ngài ấy không cần phải làm vậy.

Tôi nghĩ lại về quá trình luyện tập của mình, áp lực nặng nề từ niềm kiêu hãnh của mình khi tôi đã phải luyện tập suốt nhiều nhiều thập kỷ để học cho giống với kiến ​​thức của thầy mình về kỹ thuật này. Tôi đã từng nghĩ mình là một chàng pantheon trẻ tuổi háo hức thành người bảo vệ chính nghĩa, người bảo vệ kiến ​​thức bị cấm thiêng liêng của tộc mình, của cả chủng loài mình và thậm chí là của toàn cõi Epheotus này.

Vậy mà niềm kiêu hãnh của tôi đã khiến tôi dễ dàng bị thao túng.

Cũng giống như thằng nhóc Taci trẻ tuổi.

Bởi vì tên Kezess cần chúng tôi sẵn sàng dùng kỹ thuật World Eater nếu hắn ra lệnh.

“Tôi sợ rằng mình sẽ phải rời khỏi Epheotus,” tôi nói và đột nhiên cảm thấy mệt mỏi ngay khi những lời đó phát ra.

“Tôi biết,” ngài Ademir trả lời. Đầu ông ấy hơi quay lại, và một con mắt sáng màu tím ngừng đảo nhanh khi nó tập trung nhìn thứ gì đó. Tôi nhìn theo hướng ông ấy đang nhìn. Wren đang chạy nhanh về phía dãy cột trụ thăng bằng, vẫy tay để thu hút sự chú ý của tôi.

Ngài Ademir dừng tư thế đứng tấn vũ công lại và chuyển sang thế nghỉ ngơi. “Tôi sẽ không nói lời đụng chạm cậu bằng cách làm như thể tôi chia sẻ chung những hiểu biết của cậu, Aldir à. Cậu là một hình mẫu chuẩn mực (paragon) cho cả chủng loài chúng ta.”

“Cảm ơn ngài, Chúa tể Thyestes.” Rồi khi thấy Wren bị kích động như thế nào, tôi nói thêm, “Cho tôi xin phép,” trước khi nghiêng khỏi mép cột và thả người rơi xuống. Tôi hãm lại đà rơi của mình vào giây cuối cùng và đáp nhẹ xuống nền đất cứng. “Wren, có chuyện gì?”

Wren hàm cứng như đá và nói một cách cứng rắn, “Mấy con golem của tôi đã nhìn thấy lực lượng của tộc rồng đang di chuyển vào vùng xavan, dẫn đầu bởi gã bạn cũ Windsom của cậu. Có điều gì đó trên khuôn mặt tái nhợt, cau có và cái cách mà đầu gối bọn chúng rung lên theo mỗi bước đi báo tôi biết nhiệm vụ của chúng không phải là chuyện yên bình gì, nhưng dường như chúng cũng không quá hào hứng với những gì chúng phải làm. Cậu có nghĩ rằng, chỉ là có thể thôi, chuyện này có liên quan đến cậu không?”

“Lũ rồng à? Hành quân đến tận làng Battle's End ư?” Ngài Ademir gầm gừ khi đáp xuống bên cạnh chúng tôi, chất đe dọa trong lời nói của ông ấy không thể nhầm lẫn. “Vào ngay cái lúc này ư? Nếu hắn ta nghĩ rằng tôi sẽ để cho sự nhục mạ này tiếp diễn—”

“Bình tĩnh nào, bạn cũ của tôi,” tôi nói, đôi mắt nhắm nghiền lại và đặt tay lên ngực ông ấy. “Tôi mong ngài thề với tôi, Ademir. Đừng dây chuyện này đến gia tộc, dù bất cứ điều gì sẽ đến từ cuộc xâm nhập này. Bọn chúng không ở đây vì tộc Thyestes.”

“Chúng có thể đến vì một người, nhưng chúng sẽ được gặp tất cả mọi người, Aldir,” ông ấy nói chắc nịch, chuẩn bị quay lưng lại tôi. “Không thành viên nào của Tộc Thyestes sẽ—”

“Vậy thì ngài sẽ phải trục xuất tôi.”

Ngài Ademir bất ngờ trước câu chen ngang của tôi đến mức phải mất vài giây ông ấy mới hiểu được ý nghĩa thực sự từ lời tôi nói. Ông ấy tỏ vẻ mỉa mai, nhưng không cử động hay nói gì.

“Chúa tể Thyestes, tôi đã cống hiến mọi khoảnh khắc trong cuộc đời rất dài của mình — vì nhiệm vụ hy sinh mọi thứ khác— để bảo vệ gia tộc và người dân chúng ta”. Đưa tay ra sau gáy ông ấy, tôi nhẹ nhàng kéo ông ấy về phía trước cho đến khi trán chúng tôi chạm vào nhau. “Giờ đây, tôi đã sửa soạn để sống tha hương nhằm làm điều tương tự. Nhưng ngài phải để tôi làm thế.”

(Người dịch: ‘điều tương tự’ mà Aldir nói ở đây là ‘bảo vệ gia tộc và người dân chúng ta’, nếu Aldir không bỏ đi, chuyện này dây ra thì Kezess đánh cả tộc Thyestes)

Tay ngài ấy đặt lên cánh tay tôi một lúc, rồi ông ấy thả ra. Những nét nhăn nheo tỏ vẻ đầy đau đớn hằn lên làm lu mơ vẻ bình tĩnh vốn có trên mặt ngài. Vài giây trôi qua, và tôi cảm thấy ông ấy đang gồng sức mình lên.

“Vậy thì đi đi. Aldir, cậu… bị trục xuất, khỏi khỏi nơi này và gia tộc này.”

Khi ông ấy nói những lời đó, một ngọn lửa thiêu đốt xuất hiện như xé toạc da thịt trong cổ tôi. Dấu Khắc của Người Bị Trục Xuất. Một biểu tượng vật lý cho thấy tôi không còn chỗ trong làng Battle's End hoặc vùng Xavan Cerulean nữa. Cơn đau này chẳng giống bất cứ gì tôi từng cảm thấy từ trước đến giờ, nhưng ngoài việc nghiến răng tôi không cho phép mình thể hiện nó ra mặt.

“Sẽ không có người pantheon nào ở Epheotus này hỗ trợ cậu.” Giọng ngài ấy trở nên thô ráp và đầy cảm xúc khi nói câu cuối cùng. “Nhưng hãy biết rằng cậu vẫn có thể tìm thấy sự hỗ trợ và giúp đỡ, nếu cậu cần nó. Nếu cậu tìm kiếm chỗ nghỉ ngơi trong thế giới của lũ thấp kém, hãy đến nơi được gọi là Beast Glades trên lục địa Dicathen của chúng. Những ngục tối cổ xưa ở đó vẫn còn chứa đựng nhiều bí mật, và có lẽ thậm chí còn có sự trợ giúp cho bất kỳ đứa con trai và con gái ngỗ nghịch nào của làng Battle's End này.”

Đường đời tôi vừa dài vừa vất vả, nhưng trước đây tôi luôn nghĩ rằng nó đã kết thúc ở nơi này, ở làng Battle's End này. Còn giờ, tương lai đó đã không còn nữa. Mặc dù đã yêu cầu việc bị trục xuất, nhưng nó khiến tôi cảm thấy mất phương hướng và lạc lối trong nhất thời, bị cắt đứt khỏi chính tương lai và số phận của mình.

Ít ra thì, nó giải phóng tôi khỏi gánh nặng khi luôn phải nghĩ tới chuyện dạy kỹ thuật World Eater cho người khác, tôi nhận ra nó như điều cuối phải nghĩ.

Rồi Wren chuyển mình, đôi mắt thông minh của ông ấy đọc vị tôi rõ như thể tôi là một thảm trang trí thêu mấy câu chuyện ở Lâu đài Indrath, và tôi đã chốt xong hướng đi mới của mình. Với một lão già như tôi, mới là một khái niệm khó khăn trong đầu mình.

Nhưng tôi không bị mất phương hướng. Tôi biết tiếp tới mình sẽ đi đâu, ngay cả khi tôi không biết được điều gì có thể xảy ra trong chuyến hành trình đó.

Và vì vậy, với cái cúi đầu cuối cùng trước ngài Ademir, ông ấy không thể nhìn vào mắt tôi vì tôi không còn là người của tộc Thyestes nữa, tôi quay gót và đi mạnh mẽ từ quảng trường vào những con đường rộng lớn đầy đất ở làng Battle's End. Nhiều cặp mắt dõi theo tôi trong khi giả vờ như không thấy lúc tôi đi ngang qua các ngôi nhà, mấy sân tập và những quầy hàng buôn bán, giờ mọi thứ đều đóng lại với tôi. Không ai chào từ biệt tôi hay chúc may mắn, hay nói lời chúc sức khỏe dồi dào cho những chuyến đi của tôi như truyền thống đó giờ.

Điều này đau hơn tôi tưởng tượng. Sự thiếu tôn trọng của tôi dành cho tên Kezess và những quyết định của hắn đã dồn nén thành sự căm ghét vào lúc đó. Khi tôi dùng tuyệt kĩ World Eater, tôi đã hy sinh danh dự và niềm tự hào của mình. Điều đó đã đủ tệ rồi. Nhưng giờ hắn cũng lấy đi cả quê hương và di sản của tôi, và vì điều đó, tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho gã chúa tể của chủng rồng này.

Với chính ngọn lửa cuồng nộ, cay đắng này đang bùng cháy trong lòng, tôi bước khỏi ranh giới địa phận của làng Battle's End, nhưng chính nỗi sợ khiến tôi không thể ngoái lại nhìn, sợ rằng sự mất mát này sẽ gạt chân tôi khuỵu xuống nếu tôi quay lại.

Những thảm cỏ xavan mọc cao ngang vai ở hai bên vệ đường nhiều người qua lại, những cây cỏ đủ màu như xanh mòng két, xanh lam, xanh lam lục, xanh biển không ngừng quất qua lại khi Ngọn gió của Chiến binh thổi qua. Đồng cỏ không còn đem lại cảm giác như một đại dương lăn tăn mềm mại nữa, mà như có mười triệu ngọn thương từ chỗ tôi chỉa về phía người bạn thân yêu và lâu đời nhất của tôi trong số lũ rồng. Đây là một điều gì đó, để nghĩ rằng cái đồng cỏ xavan này vẫn đứng về phía tôi.

Cũng không quá lâu trước khi tôi tìm thấy bọn chúng. Tôi cảm thấy một chút vui thú theo kiểu căm ghét khi thấy hàng chục tên lính tộc rồng dừng lại đột ngột, như thể chân chúng không kéo chúng lại gần tôi nữa. Windsom, kẻ đang dẫn đầu bọn chúng, hơi hất cằm lên và phủ một lớp uy nghiêm lên mặt hắn, chờ tôi đến gần.

“Aldir của Gia tộc Thyestes, tôi đã được gửi đến—”

“Cái đoạn ‘của Gia tộc Thyestes’ không còn nữa đâu,” tôi nói trịnh trọng, cắt ngang bài phát biểu ngạo mạn của hắn. "Tôi đã bị trục xuất."

Cặp mắt của Windsom nheo lại. “Một lá chắn thuận tiện cho những người trong tộc anh, nhưng nó cũng đơn giản hóa mọi chuyện cho Chúa tể Indrath.”

“Ngươi ở đây để bắt ta và đem ta về để nhận sự phán xét của gã Kezess,” tôi nói, bước lại gần hơn một bước, phép thuật liên kết tôi với vũ khí của mình, thanh Silverlight, râm ran khắp đầu ngón tay.

Tay những người lính tay siết chặt vũ khí.

Vẻ mặt của Windsom vẫn thản nhiên. “Chỉ khi anh ép chúng tôi phải làm thế. Chúa tể Indrath yêu cầu anh hiện diện ngay lập tức, và chúng tôi ở đây để bắt buộc anh phải chấp thuận.” Lông mày hắn đang cong trở thành thẳng, lượng mana trong người hắn bùng phát ra theo kiểu bắt chước Vương Lực (King’s Force) hàng xịn nhưng nhìn rất nghèo nàn. “Bằng bạo lực nếu cần thiết, mặc dù Chúa tể Indrath và tôi đều tin rằng anh sẽ đi cùng theo cách hòa bình.”

Tôi lướt qua khuôn mặt của mấy tên lính. Tôi biết tất cả bọn chúng. Tên Tassos vạm vỡ mà tôi đã cứu từ một tên điều khiển lửa phượng hoàng trong các cuộc giao tranh sau khi Hoàng tử Mordain biến mất. Cặp song sinh Alkis và Irini đã được Kordri huấn luyện từ khi tụi nó còn là những đứa trẻ. Tôi rất ngạc nhiên khi gặp Kastor, một trong những vệ sĩ riêng của Phu nhân Myre. Nhưng rồi, tôi khá ngạc nhiên khi thấy thằng Spiros khó chịu đã bị tôi giáng chức vì thái độ nhẫn tâm và chua chát của hắn đối với các gia tộc khác, và hắn đã ghét tôi kể từ đó.

Điều này cũng tương tự với mấy kẻ khác. Tôi biết bọn chúng. Tôi đã huấn luyện chúng, chiến đấu cùng chúng, chỉ huy chúng.

Và đó là lý do tại sao hắn ta chọn đám rồng này. Không phải vì sức mạnh của chúng — mặc dù mỗi người đều mạnh mẽ theo sở trường riêng của chúng— mà bởi vì bọn này đã phục vụ và chiến đấu bên cạnh tôi.

Và bây giờ những năm phục vụ được tính là vô ích. Giống như Windsom, bọn chúng hoàn toàn trung thành với Kezess, và chúng lấy lòng trung thành của mình làm khăn bịt mắt, đảm bảo rằng chúng không nhìn thấy gì ngoài những gì hắn ta muốn chúng thấy.

Ngay bây giờ, hắn đã gieo vào lòng bọn này nỗi sợ hãi, tôi có thể nhìn thấy điều đó trong mắt chúng. Đám rồng này đã sẵn sàng để chiến đấu với tôi, nhưng sợ làm như vậy. Và chúng nên như vậy.

Cơn thịnh nộ lại nổi lên như một con rắn hổ mang địa ngục trong người tôi. Tôi nghĩ tôi đã kết thúc với việc giết chóc. Sau vụ Elenoir, tôi không còn ruột gan gì để kết liễu thêm nhiều mạng sống nữa, hoặc tôi đã tự nhủ như vậy. Bây giờ, khi nhìn những người đã từng bạn và đồng đội một thời này, mỗi người trong số chúng sẵn sàng hy sinh mạng mình để bảo vệ những lời nói dối của Kezess, tôi đã đưa ra quyết định cho mình.

Nếu chúng không coi trọng mạng sống của bản thân, thì tôi cũng làm điều tương tự với chúng.

“Tôi sẽ không quay lại đó, dù là lựa chọn, hay dù là cưỡng ép.”

Tên Windsom không thể kìm nén hết sự ngạc nhiên của hắn. Mắt hắn mở to và chân phải lùi về phía sau nửa bước. Khí thế tỏa ra từ hắn đang dao động. “Anh đã thay đổi rồi, người bạn cũ à. Tôi chẳng thấy gì của vị Tướng Quân Aldir vĩ đại một thời còn lại trong anh.” Quay sang Spiros, hắn gật đầu. “Hãy bắt sống nếu có thể, nhưng Chúa tể Indrath thà có xác hắn còn hơn là không có gì.”

“Nhưng, thưa Chúa tể Windsom, ngài đã đảm bảo với chúng tôi rằng—”

Câu hỏi của Irini bị cắt ngắn khi thằng Spiros chỉa cây giáo ngắn của hắn về phía trước và hét lên, “Hãy hạ gục hắn ta!” Rồi thì mấy tên lính bắt đầu di chuyển, chia thành đội bốn người, với Spiros, Tassos và hai tên khác lên chặn trước.

Thanh Silverlight lấp lánh trong tay tôi dưới hình dạng một thanh đao kopis cong, và tôi bước vào chỗ tên Spiros đang lao lên. Lưỡi kiếm cong của tôi đỡ đòn từ ngọn giáo của hắn, rồi tôi hất ngọn giáo lên cao chặn nhát chém xuống từ thanh trường kiếm (two-handed sword) quá khổ của thằng Tassos. Một thanh giáo dài đâm từ sau lưng tôi sượt qua lớp vải của bộ áo tunic khi tôi xoay người, và một cái roi rực lửa quất xuống trước khi quấn quanh cánh tay tôi.

(Người dịch: Kopis là tên một loại kiếm có đầu to hơn chuôi cầm, có hình minh họa ở dưới)

Xoay người, tôi đẩy hai thằng Spiros và Tassos lùi lại trong khi hất bay tên rồng cầm roi.

Thanh giáo lại đâm tới tôi lần nữa, nhưng thanh Silverlight đã lia ra và và sượt qua mũi giáo đến khoảng phân nửa cây giáo rồi, cắt nó ra làm đôi.

Thời gian bắt đầu chậm lại.

Một trong mấy tên lính chung đội với Alkis và Irini đang phát sáng với những ấn (rune) vàng chạy dọc theo làn da rám nắng của cô ả. Một tên khác đang đứng giữa cô ấy và tôi, hai thanh kiếm leaf-blade giơ lên ​​để phòng thủ. Alkis và Irini đứng ở hai bên cặp kiếm này, cũng giơ vũ khí của chúng lên, nhưng chúng nhìn lẫn nhau và đều im lặng.

(Người dịch: kiếm leaf-blade là loại kiếm phổ biến nhất thường thấy với các đặc điểm là lưỡi dẹp, sắc cả hai cạnh, và có lằn lõm ở giữa thân kiếm, nói chung là nhìn hình minh họa bên dưới sẽ dễ hiểu hơn)

Đối diện với chúng, là bốn tên rồng cuối trong cả nhóm đang vây quanh tôi, sắp sửa biến hình. Hình dạng vật chất của chúng đang phình lên, va vào nhau, vảy nổi nhanh lên khắp người chúng khiến các đặc điểm hình người tan biến chuyển thành loài bò sát và quái vật.

Tôi chỉ kịp thấy tùm lum màu như: trắng vàng, xanh đen, xanh lục bảo, và cam cháy trước khi quay lại với mối họa gần như tức thì.

Mũi giáo bị cắt rời vẫn đang bay vòng vèo trong không khí. Tôi chụp lấy nó, xoay người và phi nó thẳng vào mắt trái của ả rồng người phủ đầy ấn. Cặp song kiếm chỉ canh để thủ lúc nãy lao tới và đánh bay mũi giáo đang phóng tới sang một bên, nhưng chỉ ngay trước khi con rồng người phủ đầy ấn kia chớp mắt.

Dấu hiệu mana của tôi biến nhanh khó bám theo khi tôi sử dụng chiêu Mirage Walk. Trước khi phép thuật loại aevum của cô ả kia niệm xong, tôi dồn mana vào từng tế bào trong cơ thể và bước vào giữa mấy kẻ tấn công mình, vượt qua tên rồng cầm song kiếm, và đứng ngay sát cạnh ả lính người phủ rune. Đôi mắt ả thình lình mở to ra khi thanh Silverlight xuyên qua lõi của ả.

Sức nặng tích tụ gây chậm chuyển động từ câu thần chú ngưng-thời-gian thoát một phát biến mất như sợi dây thừng bị sờn và bung đứt.

Xoay một vòng, tôi ném ả rồng đang hấp hối này vào kẻ bảo vệ cho ả ban nãy, đẩy văng cả hai tên rồi chúng bay cà người xuống mặt đất.

Thanh Silverlight nhảy ra khỏi tay tôi và chém xuyên qua cây roi bốc lửa, phần đầu roi rơi xuống đất và quằn quại như một con rắn độc sắp chết. Cùng lúc đó, một bóng đen phủ xuống chiến trường.

Những tên rồng hiện đã biến đổi hoàn toàn bay vòng vòng trên bầu trời. Con lớn nhất, vảy của ả ta phát sáng màu trắng vàng, mở hàm và thở ra một ngọn lửa hình nón có xanh lốm đốm sắc tím của aether.

Silverlight nhảy ngược trở lại tay tôi và tôi chém vào không khí khi dùng các kĩ thuật mana loại tạo lực (force-type) đặc trưng của chủng tộc mình. Ngọn lửa bị chém tách thành hai nửa, và đám lính xung quanh tôi buộc phải nhảy né ra khi đòn lửa kia đốt cháy mặt đất tách về hai bên từ chỗ tôi đứng. Con rồng vàng trắng uốn lượn nhanh nhẹn trong không khí, gấp đôi cánh lại và lao bổ xuống tránh đòn gió của tôi.

Xoay tròn bằng một chân, tôi chém thành một hình vòng cung rộng quanh mình, tạo ra một lực gió (force) cong hình lưỡi hãi. Cả vùng Xavan vang lên âm thanh như tiếng búa rèn đập vào thép nóng khi lực gió kia va chạm vào vũ khí phủ aether của đám lính.

Tất cả đều đang lao vào tôi ngoại trừ một gã có cặp kiếm loại leaf-blade kia.

Nhấc nửa người đứng dậy, ánh mắt giận dữ của hắn vẫn hướng về ả bạn đồng hành đang hấp hối, hắn giơ kiếm lên chặn quá muộn, và đòn của tôi đánh trọn vào giữa ngực hắn, xé nát áo giáp và đâm vào da thịt hắn. Tôi cảm nhận được mana của hắn nhấp nháy và tan biến trước khi cơ thể hắn đổ xuống đất. Một lúc sau, mana ả đàn bà người phủ đầy ấn cũng tan dần đi.

Chuyện này. Chuyện này lại là một sự tàn ác khác mà tôi đặt dưới chân tên Kezess. Những cái chết này là lỗi của hắn cũng nhiều như lỗi của tôi.

“Tướng Quân Aldir, làm ơn, hãy dừng việc điên rồ này lại!” Irini hét lên từ bên đường. Cô ta đã nhảy xuống bãi cỏ xavan để tránh ngọn lửa của con rồng và đang chảy máu từ những vết cắt trên khắp tay và chân khi Ngọn gió của Chiến binh quất các cọng cỏ xung quanh. “Chúng tôi chỉ định — làm căng—”

Một ngọn cỏ màu lục lam đâm từ dưới cằm thẳng lên, xuyên qua hộp sọ của cô ả. Đôi mắt màu hồng mờ sương của cô ta chớp chớp liên hồi khi nhìn tôi với vẻ khiếp sợ, rồi đám cỏ xung quanh cô ả cứ cắt chém, xé nát người cô ta thành từng mảnh.

Tôi nhận ra rằng bãi cỏ xavan đang bốc cháy. Lửa rồng đã đốt cháy nó. Nó đang bị tấn công, và bởi vậy nó chống trả. Bảo vệ chính nó và các pantheon.

“Irini!” thằng anh cô ta hét lên, giọng vỡ vụn. Hắn chạy nhanh đến chỗ cô ả, không có ý đe dọa tôi, và tôi chú tâm vào chuyện khác.

Hai trong số mấy tên rồng biến hình bổ nhào xuống từ hai hướng ngược nhau, một con phóng ra một quả cầu lửa xanh từ miệng nó, con kia là một chùm tia sét trắng. Núp đằng sau cả chùm đòn phép, tôi cảm thấy ngọn giáo ngắn của thằng Spiros đâm vun vút trong không khí, và từ một hướng khác, chiếc roi dập xuống đất và bay về phía chân tôi.

Kích hoạt chiêu Mirage Walk, tôi có thể bước ngay tức khắc từ nơi này sang nơi khác, dễ dàng tránh các đòn đánh. Hay đúng hơn, lẽ ra tôi có thể làm được như vậy, nhưng khi thử, tôi cảm thấy người như va vào một rào cản vô hình nào đó. Vai của tôi bị giật trật khớp do do lực va chạm, và tôi loạng choạng lùi lại.

Ngọn giáo đâm vào tôi ngay dưới xương ức. Aether sáng lung linh màu tím truyền vào trong ngọn giáo đang đâm chích mana trong người tôi. Cơn đau từ nó chạy khắp cơ thể tôi và bám vào xương sườn gần cột sống nhưng cơn đau này không là gì so với dấu khắc vẫn còn thiêu đốt trên cổ tôi.

Khuỵu một gối xuống, tôi cầm lấy đầu ngọn giáo bằng một tay trong khi tay kia nâng thanh Silverlight qua đầu.

Một quả cầu trong suốt tỏa ra ánh sáng mát bọc quanh người tôi ngay khi hai luồng hơi thở rồng cùng hội tụ vào người tôi.

Lửa và sét ập vào lớp rào chắn, và thanh Silverlight run rẩy trong nắm tay tôi khi nó rút mana của tôi ngấu nghiến. Những gợn sóng dữ dội chạy qua lớp rào chắn.

Rồi nó tan tành.

Tôi bật dậy, chạy dọc theo đường phóng của tia sét. Kêu lên một tiếng, con rồng xanh-đen thình lình đóng sập hàm lại và nghiêng vẹo hẳn sang một bên.

Ngay sau đó, thanh Silverlight lao xé gió, phóng ra một đòn cắt hình vòm cung rất rộng. Máu trào ra từ dưới bụng con rồng, và nó nghiêng sang một bên trước khi đổ ào vào vùng cỏ xavan, nơi đám cỏ sống biến từ màu xanh lam và xanh lục thành màu đỏ thẫm.

Những móng vuốt cong queo như thanh kiếm cong (scimitar) quặp quanh tôi, ghì chặt cánh tay tôi vào hông. Những móng vuốt đến từ cái dáng khổng lồ của một con rồng xanh lục bảo lấp ló bầu trời phía trên tôi, và cả tôi và rồng đều bắt đầu run lên.

“Đi đi, Kastor!” con rồng trắng vàng hét lên, và tôi hiểu ngay.

Sự run rẩy trở thành sự rung động, và những lớp vảy đen trở nên óng ánh màu thạch anh tím.

Tên Kastor đang dịch chuyển chúng tôi trở lại chỗ chân núi Gelous.

Tôi thả Silverlight ra và mò mẫm tìm phần mối nối giữa cái móng và ngón chân rồng. Khi tìm thấy một chỗ, tôi vặn cổ tay mình, làm phát ra tiếng gãy vỡ khi móng vuốt vỡ tan trong cú siết tay của tôi. Tên Kastor nao núng, và mấy móng vuốt còn lại của hắn siết chặt quanh tôi. Cơn đau âm ỉ bao trùm mọi cảm giác ở cánh tay trái của tôi, cánh tay như thể tách khỏi cơ thể tôi và buông thõng xuống giữa các móng rồng đang kìm kẹp, làm rơi thanh Silverlight.

Khi thanh kiếm rơi tự do, nó xoay mòng mòng và bay lên trên đầu tôi, rồi chém vào mắt cá chân có vảy màu ngọc lục bảo của tên Kastor.

Tôi bắt đầu rơi xuống cùng với cái móng bị bẻ rời khi nãy quặp vào người.

Thằng Spiros bay vọt tới chỗ tôi. Hắn đã biến đổi một phần để lớp vảy đen bóng bao phủ da thịt và đôi cánh rộng mọc ra từ lưng. Mắt hắn cháy rực màu tím như thiêu đốt, và lửa cháy lập lòe giữa những chiếc răng nanh dài ra khỏi hàm.

Tôi đá báy cái móng vuốt đứt của tên Kastor ra, xoay người và nghiêng qua cú đâm điên dại của thằng Spiros. Silverlight đã bay trở lại trong tay tôi, và tôi chém nhanh thành một đường màu đỏ, đẫm máu từ vai xuống hông thằng Spiros.

Với một chuyển động tương tự, tôi chém thành một vết cắt ngắn nhưng sắc bén, lực cắt xuyên qua mọi thứ giữa tôi và mặt đất, bao gồm cả tên Urien dùng roi của tộc Somath khi nãy, người thằng này vỡ tung ra thành một cơn mưa máu.

Với một cú giật mạnh đến độ khó chịu, tôi kéo cánh tay lại đúng khớp bả vai ngay trước khi đáp xuống đất. Tôi quẹt chân thật mạnh, dùng lực hất tung đám bụi lên để che khuất tôi, dù chỉ được chốc lát, trong khi tôi theo dõi dấu hiệu mana của mấy tên rồng còn lại.

Trên mặt đất, Tassos và tên rồng cầm giáo dài, tên Orrin, cả hai thằng này đều thuộc tộc Indrath, đứng vai kề vai bên cánh trái tôi. Bên cánh phải, ở phía xa, Windsom đứng lùi lại khá xa trong khỏi trận chiến. Alkis, anh sinh đôi của con Irini, đã biến mất. Bị bãi cỏ xavan nuốt rồi, tôi chắc chắn luôn.

Trên trời, tôi có thể nghe tiếng thằng Kastor đang chửi thề vì đau trong khi hai tên rồng đã biến hình khác tiếp tục bay vòng quanh chiến trường.

“Kết thúc chuyện này đi,” tôi nói oang oang lên, không nói cụ thể với bất kỳ tên rồng nào. “Những người còn lại cũng không cần phải chết.”

“Đồ phản bội!” Tên Tassos hét lên, giọng như sấm vang khắp vùng xavan.

Qua cơn thịnh nộ lạnh lẽo của mình, tôi cảm thấy tim mình đập thình thịch trong đau đớn. Câu nói trên đến từ một chiến binh mà tôi đã từng cứu mạng, người đã thề sẽ trả ơn vào một ngày nào đó trong khi cười toe toét lúc đau đớn khi da thịt đang lành lại từ chỗ các chi bị bỏng…

Không ai trong số họ có thể hiểu những gì tôi có thể hiểu ư?

Nhưng không, dĩ nhiên là họ không thể. Ngay cả tôi cũng chưa từng hiểu nó, cho đến khi tên Kezess ép tôi sử dụng tuyệt kĩ World Eater. Cho đến tận lúc đó, sự kiểm soát của Kezess đối với thế giới quan của tôi là tuyệt đối, một bức rèm tinh tế và thanh tao đến mức không thể nhìn thấy hay chạm vào được.

Sẽ tốt hơn nếu tôi có thể làm cho lũ này hiểu. Có lẽ ai khác sẽ phá vỡ được phép thuật của tên Kezess vào một ngày nào đó. Nhưng bởi vì tôi không thể làm thế, sẽ quá muộn cho những tên rồng này.

Cảm nhận xung quanh mình, lần này tôi đã cảm nhận được những bức tường trước khi dùng chiêu Mirage Walk. Không gian tự nó biến dạng, không thể nhìn thấy được bằng mọi giác quan ngoại trừ bản năng người pantheon đã được mài dũa kỹ lưỡng của tôi. Một trong những con rồng đang tối ưu aether để chặn các vụ bùng nổ tốc độ (bùng tốc) gần như tức thì được tạo ra từ chiêu Mirage Walk, “bí” thuật của Gia tộc Thyestes.

Nhưng dĩ nhiên, khi tất cả các gia tộc đều hồi đáp yêu cầu của tên Kezess, thì chẳng còn bí mật nào với lũ rồng cả.

Thanh Silverlight chuyển hình dạng, trở thành một giáo dài bóng bẩy bằng bạc, và tôi đâm vào lớp rào chắn vô hình. Mặc dù khả năng gây ảnh hưởng đến aether của lũ rồng đã khiến chúng trở thành những kẻ mạnh nhất trong mọi chủng tộc, nhưng chúng không kiểm soát được nó. Tạo ra một thứ gì đó vững chắc, chẳng hạn như một rào cản vô hình, là một cách dùng tinh vi của những kẻ gây ảnh hưởng được lên aether bởi vì ngay cả những tên có thể vận dụng aether mạnh nhất cũng phải vật lộn để duy trì aether chống lại những kẻ chỉ ứng dụng lực đánh thuần túy như tôi.

Lớp rào chắn vỡ tan. Từ trên cao, con rồng trắng-vàng hú lên vì ngạc nhiên và đau đớn.

Tên Tassos đã di chuyển, thanh trường kiếm của hắn tỏa ra ánh sáng màu tím đen như thể rút ánh sáng từ ngoài không khí vào. Ở bên phải của tôi, tên Kastor bổ nhào xuống, phi như bắn về phía chúng tôi giống một ngôi sao đen.

Tên Tassos này mạnh, một trong những tên tộc rồng mạnh mẽ nhất mà tôi từng chỉ huy. Khả năng huy động aether vào vũ khí của hắn khiến hắn trở thành một chiến binh thực sự chết người. Nhưng tôi đã huấn luyện và chiến đấu bên cạnh hắn, chỉ huy hắn, và tôi có lẽ hiểu rõ khả năng của hắn hơn chính hắn.

Tất cả sức mạnh của hắn đều dồn vào sau cú xoay người, nhắm thẳng vào cổ tôi với lực đủ để phá tan bất kỳ hàng phòng thủ nào. Tôi hoãn lao tới trước, truyền mana để dùng chiêu Mirage Walk, và bước một bước duy nhất.

Giống như một con rắn hổ mang chúa đang tấn công, Tassos chỉnh lại lưỡi kiếm, rút nhanh nó và vẽ nó thành đường chạy dọc cơ thể hắn bằng một động tác xoay nhanh đến ấn tượng. Nếu tôi bước về phía hắn, lưỡi kiếm của hắn sẽ có góc chém hoàn hảo để tung ra một đòn chí mạng.

Nhưng tôi không làm vậy. Chân của tôi vừa bước sang phải, chỉ nửa bước thôi, nhưng đủ để tôi nằm ngoài phạm vi quét kiếm ban đầu của hắn. Tuy nhiên, bước đi ngắn đó xảy ra với tốc độ và lực quán tính mạnh đến mức khi tôi thả thanh Silverlight ra, nó bay vọt tới như thể được nó bắn ra từ một chiếc nỏ thần nào đó.

Miệng tên Kastor há ra để tạo ra một luồng sét khác, và thanh Silverlight lao thẳng vào cổ họng hắn. Con rồng cứng đờ người như một hóa thạch cổ và gục xuống đất, đôi cánh màu xanh lục đậm vỡ vụn ra và cổ vặn ngoằn ngoèo một cách bất thường khi ánh sáng từ bãi cỏ xavan bị tán xạ sáng lấp lánh vì những mảnh vỡ từ lớp vảy ngọc lục bảo.

Tên Tassos rít lên trong giận dữ và thất vọng, lưỡi kiếm sáng rực. Bên cạnh hắn, tên Orrin Indrath giơ hai bàn tay nắm chặt lên, và mana bắt đầu phồng lên giữa bọn chúng.

Một làn khói ngọt đến phát ớn thoảng qua con đường từ bãi cỏ xavan đang cháy âm ỉ.

Một con rồng gầm rú trên bầu trời.

Mặt đất rung chuyển.

Một vòng đất quanh chỗ tôi đứng sụp đổ, rơi xuống khoảng hư không vô hạn (infinite void) bên dưới. Gió gào thét bốc lên từ khe hẹp hư không này giống như một con quái thú nguyên tố cổ đại từng đi lang thang ở Epheotus, biến cột đất hẹp chỗ tôi đang đứng thành một phòng giam.

Cùng với cơn cuồng phong dữ dội xé toạc đường rìa của thế giới, một mặt phẳng hình tròn gần như vô hình của aether nhánh không gian (spatium) giờ mới thấy được, giống như nhìn thấy mảnh thủy tinh đặt trong nước vậy.

Qua làn gió và aether, tôi có thể thấy những giọt mồ hôi tỏa sáng lông mày thằng Orrin và nắm đấm của hắn rung lên vì gắng sức.

Phép thuật nhà tù hư không gì hơn là một kỳ công. Dù có là lần thử tốt nhất thì việc mở một lỗ hổng vào hư không thì vẫn rất nguy hiểm, nhưng việc truyền mana để kích hoạt nó thì luôn nguy hiểm cho mọi kẻ dùng nó ngoại trừ những kẻ điều khiển mana tài năng nhất. Tên Orrin Indrath là giao thoa giữa hai vị trí lính canh và lính chiến. Hắn ta cố tìm cách để sức mạnh phép thuật vượt lên trên tất cả, để nổi bật trong gia tộc hắn, trở thành người vĩ đại nhất trong tất cả các gia tộc.

Một con rồng phải vươn cao để nổi bật trên đỉnh núi Gelous. Gã này, dường như đã vươn quá xa.

Chìa tay ra, tôi triệu hồi thanh Silverlight đang nằm ngập sâu trong xác chết tên Kastor. Xoay cây giáo, tôi thả nó xuống vòng đất dưới chân mình, phóng xuống thành một làn sóng lực sâu, rất sâu vào lòng đất.

Cây cột giam, được chạm khắc bởi chú phép của tên Orrin, bị vỡ vụn và rời thành nhiều mảnh trước khi sụp xuống trôi vào khoảng hư không (void). Tôi bay lên trên, lơ lửng, chống chọi với sức hút ngày càng lớn khi khoảng hư không này vang lên tiếng u u như đói khát, chực nuốt chửng tất cả những gì chạm vào nó. Ngọn gió thổi lên, lên và lên mãi, làm càng lúc càng khó bay. Nhưng bên ngoài chu vi của chú phép này thì tình hình leo thang nhanh hơn rất nhiều.

Tiếng gió gào thét quá lớn khiến tôi không thể nghe thấy bất cứ điều gì bọn kia đang nói, nhưng cách hai tên rồng đã biến hình quay cuồng trong cơn hoảng loạn và cách toàn bộ cơ thể tên Orrin rung lên bần bật gợi ý rất rõ rằng hắn ta đang vật lộn và thất bại trong việc điều khiển chú phép này.

Chầm chậm và đau đớn, tôi bắt đầu bị kéo dần vào khoảng hư không. Đòn tấn công của tôi đã phá vỡ hình dạng của câu thần chú, khiến nó không ổn định. Cuối cùng, sự gồng gắng của thằng Orrin để kiểm soát nó sẽ sụp đổ, nhưng điều đó sẽ không giúp ích được gì cho tôi nếu tôi đã bị rã nát ra khi rơi vào vùng quên lãng dưới đây. Và vì vậy tôi lùi lại cùng với thanh Silverlight trên tay. Nó biến thành một thanh kiếm lá lúa (rapier) mảnh mai, được chế tác tuyệt đẹp và vẽ thành một vòng cung màu bạc trong không khí chỗ tôi chém.

Bên dưới tôi, khoảng hư không quay cuồng, chỗ hư vô màu tím đen phình lên và rung chuyển khi nó nuốt chửng lực đánh từ tôi. Tôi liên tục chặt chém đâm và cắt, mỗi đòn bằng thanh Silverlight đều bay xa thành những điểm sáng lấp lánh, trút ngày càng nhiều lực chém và mana vào cái khoảng hư không kia.

Những bức tường gió càng gia tăng dần dần và trở nên thiếu ổn định. Hình dạng của tên Orrin trở nên không rõ ràng, các cạnh rìa ở thân hắn mờ đi.

Rồi chú phép bị phá vỡ.

Phép thuật này đã xé toạc hình dạng vật chất của cơ thể Orrin xuống cấp độ tế bào, toàn thân hắn không còn gì ngoài một đám mây mana tinh khiết, và thậm chí đám mây này còn tan nhanh vào bầu không khí.

Tôi đang trôi lơ lửng trên một cái hố miệng có hình tròn sâu như cái vực mà từ đây đến đáy cách khoảng vài trăm feet và chất đầy cả đống đất đá vỡ gồ ghề bên dưới.

Thằng Tassos há hốc miệng và nhìn chằm chằm vào nơi mà gã anh họ của mình mới chết. Thanh Silverlight lao về phía trước, và cổ hắn tách ra với một tia máu phun ra từ động mạch. Hai bàn tay hắn chụm cổ họng, nhưng chúng không thể ngăn được màu đỏ chạy ào qua các kẽ ngón tay. Thanh trường kiếm của hắn rơi xuống đất, ánh sáng aether truyền cho nó nhấp nháy và vụt tắt. Mạng sống hắn cũng theo cái ánh sáng đấy một lúc sau đó.

Những con rồng đang bay lùi lại phía sau, một con màu trắng vàng tuyệt đẹp, con còn lại màu cam đỏ vàng như màu mặt trời mọc, cả hai đều tỏa ra một luồng áp khí mạnh mẽ đáng sợ khi bay vòng tròn trên đầu Windsom. “Chúng ta làm gì đây?” con rồng trắng vàng hét xuống.

“Tôi nghĩ chúng ta đã thấy đủ rồi,” Windsom nói, giả vờ buồn bã. “Rõ ràng là Aldir Thyestes hùng mạnh và trung thành một thời đã rơi vào điên loạn. Chúng ta sẽ trở lại với một lực lượng lớn hơn.”

Tôi bay về phía Windsom, nổi lên chầm chậm để có thể thoải mái nhìn xuống hắn ta. “Lẽ ra chúng ta không bao giờ nên tiếp tục theo hầu tên Kezess sau vụ người djinn, bạn cũ à.”

(Người dịch: hãy để ý cách tác giả mô tả vị trí đứng của Aldir với Ademir lúc này và Aldir với Windsom hiện giờ để cho thấy sự khinh thường của Aldir với Windsom)

Mũi tên Windsom nhăn lại. “Chúa tể Indrath.”

“Chúng ta lẽ ra phải nhìn thấy hắn ta như thế nào. Bây giờ chúng ta có một cơ hội để làm vậy. Hãy làm điều đúng đắn.”

Tên Windsom lắc đầu và cau có. “Đơn giản là ngươi đã chứng minh rằng bản thân mình quá yếu đuối để thực hiện nhiệm vụ được giao cho.”

Tôi vốn không mong tên Windsom sẽ tỏ ra hối hận hay thay đổi lòng trung thành của hắn, nhưng tôi vẫn cảm thấy đau nhói vì hối hận và mất mát khi biết rằng giờ đây chúng tôi thực sự là kẻ thù của nhau.

Không còn lời nào để nói. Tên Windsom tạo ra một cánh cổng dịch chuyển và bước qua nó. Hai tên rồng sống sót quay đầu và bay đi với tốc độ nhanh. Tôi để chúng đi.

Có động đậy phía bên phải khiến tôi mất cảnh giác, nhưng đó chỉ là lão Wren đang bay là là trên cái ghế nhìn như ngai vàng của ổng.

“Đây là những gì tên Kezess muốn,” tôi nói với tiếng thở dài, tự nói với bản thân nhiều như với lão Wren. “Gây đổ máu, để hắn ta có thể tô vẽ tôi như một con quái vật và làm xói mòn bất kỳ sự hỗ trợ nào mà tôi có thể còn xót lại ở vùng Epheotus này.”

“Khá phù hợp với một tên mắc chứng sociopath ở mức cao khi dùng chính những người lính mà cậu đã giúp huấn luyện như rơm rác để tô vẽ cậu thành con quái vật.”

(Người dịch: ‘sociopath’ là một cụm từ không có nghĩa tương đương bên tiếng Việt, thuật ngữ chuyên ngành tâm lý học, dùng để chỉ “những người mắc chứng rối loạn nhân cách chống đối xã hội. Đây là chứng rối loạn bao gồm hành vi thao túng người khác, bốc đồng và thiếu sự thiếu đồng cảm.” Và khi ta nhìn vào định nghĩa trên, ta thấy nó giống hệt tính cách của Kezess)

“Hừm.”

“Cậu biết đấy, tôi nghĩ có lẽ đã đến lúc phải cút mẹ nó khỏi đây,” ông ta nói tiếp, nhìn mấy con rồng đang rút lui dần về phía chân trời. “Giá trị đất đai của vùng Xavan Cerulean này chắc chắn sẽ giảm xuống nếu ta xét đến sự phá hoại của loài rồng ở đây. Với một hố rỗng. Với mớ cỏ sát thủ bị cháy xém.” Ông ấy nhìn tôi đầy hoài nghi. “Nhân tiện thì, cậu có biết không? Một lời cảnh báo nho nhỏ sẽ rất hay. Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi giẫm nhầm một ngọn cỏ dao kia và mọi ngọn cỏ khác trở nên tức giận và biến tôi thành hoa giấy thương hiệu titan?”

(Người dịch: Wren là người tộc Titan - tộc khổng thần)

“Giờ không phải lúc ngồi nói móc nhau đâu,” tôi trả lời, trong lòng quá lạnh đến nỗi không thể tìm thấy bất kỳ sự thích thú nào trong lời nói của ông ấy.

Ông ta hơi nghiêng ghế, ngả người ra sau và vắt chân này lên chân kia. “Tôi thì nghĩ khác. Chả có lúc nào tốt hơn bây giờ để nói giỡn về chuyện sinh tử.”

Tác giả: TurtleMe

Người dịch: Nightmoonlight