[] [] []
Những ánh đèn phố chập chờn ở phía xa xa là một cảnh
tượng khá nhẹ nhõm sau cả tiếng đồng hồ đi bộ không ngừng nghỉ. Tôi đã trở về
Ashber, thị trấn nhỏ nơi tôi
được sinh ra, lần đầu tiên sau khoảng hơn mười năm trời.
“Mica
sẵn sàng tu một cốc bia mát lạnh sảng khoái rồi đấy,” nữ tướng quân thì thầm,
liếm đôi môi đã khô và nứt nẻ của mình.
Tôi
gật đầu, cố gắng giữ tốc độ trùng với cỗ xe ngựa trước mặt.
“Tôi
có tò mò một tý, thưa ngài. Chính xác thì ngài có bao nhiêu nô lệ thế?” Cậu trai trẻ hơn hỏi một cách đầy
hào hứng, mắt hắn đảo từ Olfred sang tôi.
“Tôi
chả bao giờ đếm cả.” Olfred nhún vai trả lời. “Bọn tôi có rất nhiều ở nhà, tôi
có sở hữu một số người, số còn
lại
là của gia đình tôi.”
“Wow.”
Gã ta huýt sáo. “Nếu ngài có nhiều đến thế, vậy ngài có thể cho chúng tôi hai đứa
nô lệ—ouch!”
Lão
già râu ria ngả người về sau và đánh vào đầu cậu ta. “Não mày bị úng à? Ai lại điên đến mức cho không nô lệ của
mình!?”
Gã
ta gãi đầu, chỉnh lại bộ tóc vàng dơ dấy của mình. “Gì mà căng? Tôi chỉ hỏi thôi mà ông
già. Mẹ kiếp.”
“Xin
lỗi vì thằng nhóc nhà tôi. Tôi đã phải gà trống nuôi con sau khi mẹ nó cuốn gói
bỏ đi, và tôi chẳng bao giờ
ưu tiên việc dạy
nó lễ nghi phép tắc gì.”
“Không
sao cả.” Olfred nói và bật cười. “Thường thì tôi sẽ để hai đứa đó lại cho ông
khi tôi đến nơi, nhưng ít nhất hai đứa đó có thể bảo vệ tôi trong thời loạn lạc
này.”
Gã
kia chỉ tặc lưỡi. “Tiếc thật.”
Có
gì đó không ổn với hai người họ. Ngoài trừ việc chẳng có xe nào ngoài trừ chiếc
này ra vào thị trấn, thì trên xe chẳng có hành lý gì cả. Vũ khí duy nhất của họ
là các con dao găm giắt
trên hông, nhưng chúng cũng chẳng
có tác dụng bảo vệ gì nhiều.
Bọn
họ khá cảnh giác ngay khi gặp mặt, nhưng giờ bọn họ lại quá thoải mái, như thể
bọn họ đang đợi một lý do để tin tưởng bọn tôi. Tuy nhiên, bọn tôi sắp đến
Ashber và vẫn chưa có gì bất thường xảy ra cả.
“Chà,
chúng ta đến nơi rồi.” Ông tài xế râu ria thông báo, kéo dây cương để dừng cỗ
xe lại. “Bọn tôi sẽ không vào thị trấn này, nên tốt nhất là từ đây thì ông nên đi bộ.”
“Cả
hai người sẽ đi suốt đêm luôn hử?” Olfred hỏi với chút ngờ vực.
“Bọn
tôi đang vội đến một tiền đồn cách đây khoảng một giờ đi đường,” tên tóc vàng
cười trả lời, mở cửa sau để Olfred đi ra.
“Vậy
à, dù gì thì cũng cảm ơn vì đã cho đi nhờ.” Olfred đưa cho gã ta thêm một đồng
bạc trước khi nhảy xuống.
Tài
xế gật đầu rồi quất dây cương. Cả hai con ngựa thở dài bực bội rồi bắt đầu bước
đi, kéo cỗ xe đi vào con đường đất hẹp ở bên trái.
“Bọn
chúng diễn dở thật,” Olfred vừa nói vừa lắc đầu.
“Vậy
không chỉ mình tôi là thấy họ khả nghi.” Tôi trả lời.
“Sao
chẳng được. Miễn là có giường ấm nệm êm và rượu bia thì Mica vẫn vui vẻ.”
Cả
ba bọn tôi đi bộ vào thi trấn, tôi để ý thấy đường đi rất vắng vẻ không một
bóng người. Theo ký ức hồi thơ ấu của tôi thì Ashber là một thị trấn nhộn nhịp
dù nó là một thị trấn không
lớn. Ở nơi phía nam xa xăm này không hề có nhiều thám hiểm giả, nhưng vì có một con suối nhỏ chảy
gần đây khiến khu vực này cực kì lý tưởng để trồng trọt vụ mùa. Sau cái chết của
Lensa (ai quên Lensa là ai thì đọc lại chap 142 nhé), cha
tôi đã đưa mẹ tôi đến vùng đất xa xôi này và nhận công việc bảo vệ nông dân và
vụ mùa của họ khỏi những con sói hay quái mana đi lạc từ dãy núi Grand
Mountains. Vì các người nông dân thường dậy sớm để chăm sóc vụ mùa và dành cả
buổi chiều để buôn bán ở các chợ nên đường xá Asber lúc nào cũng xôn xao nhộn
nhịp, đêm xuống cũng chính là lúc mọi người thư giãn và vui vẻ với nhau.
Cha
tôi thường về nhà khá khuya, đôi lúc tự vấp té sau khi nhậu cùng các nông dân địa phương. Tôi nghĩ rằng chiến
tranh sẽ thay đổi nơi này, nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng Ashber lại trở
thành một thị trấn ma như bây giờ.
Đèn
đường nằm rải rác khắp nơi vẫn còn sáng, nhưng không có bất kì dấu hiệu của người
nào ở gần đây. Cả ba bọn tôi cảm thấy có ai đó nấp trong hẻm tối, ẩn mình trong
màn đêm. Nhưng sau một hồi thì kẻ đó đã biến mất, tiếng bước chân vội vã của hắn
nhỏ dần đi cho đến khi âm thanh duy nhất mà tôi nghe được là tiếng bước của của
chúng tôi.
Cả
bọn tôi đều nhìn nhau nhưng vẫn giữ im lặng. Quan sát xung quanh, hầu hết các
tòa nhà đều bỏ trống hoặc đóng ván hết. Những ván gỗ được đóng qua các khung cửa
sổ, còn cửa chính thì được dây xích buộc lại. Tôi kích hoạt Realmheart để cảm
nhận dao động mana, không hy vọng gì nhiều.
Tuy
nhiên, tôi có thể cảm nhận được mana dao động khắp cả thị trấn này. Có các pháp
sư đã từng đến đây cách đây không lâu.
“Tôi
cảm nhận được một số cá nhân đang rải rác xung quanh, nhưng có một đám đông khoảng
bốn mươi người ở cách đây vài khu phố,” Olfred nói.
“Mica
cảm nhận được bốn mươi ba,” nữ Lance nhỏ nhắn lẩm bẩm.
“Tôi
tưởng chúng ta đều đồng ý là không dùng phép thuật mà?” Tôi nói một cách bực dọc.
“Lỡ nếu có pháp sư Alacryan hay Vritras gần đây phát hiện thì sao?”
“Không
cần thiết phải dùng mana để cảm nhận bọn họ.” Olfred trả lời ngắn gọn.
‘Cái
gì?’ Tôi suýt nữa thì thốt to lên. Nếu bọn họ có thể cảm
nhận chính xác đến mức này thì toàn bộ kế hoạch của tôi sẽ phá sản mất.
“Tốt
lắm,” Tôi nói dối. “Có vẻ như chúng ta sẽ tìm ra hang ổ của Alacryan sớm hơn
tôi tưởng.”
“Nhưng
vẫn sẽ tốn thêm thời gian. Mica chỉ có thể cảm nhận được một khoảng cách ngắn
thôi, và nó cũng khá rối tung mù. Cả Olfred cũng thế.” Mica giải thích.
“Là
nô lệ mà sao hai người nói lắm thế.” Olfred hằn học, trước khi nhỏ giọng xuống.
“Chỉ vì chúng ta không dùng phép thuật không có nghĩa là kẻ thù cũng thế, phải
luôn cho rằng chúng có thể nghe thấy chúng ta.”
Tôi
biết rằng gần đây không hề có ai cả—ít nhất thì không có ai đang thao túng mana
gần đây cả—và có vẻ Olfred cũng biết nên chắc là ông ấy chỉ muốn Mica ngưng nói
chuyện về giới hạn của mình, nhưng vị Lance già cũng có lý. Tôi gật đầu và tiếp tục lẽo đẽo theo
sau Olfred, còn Mica thì lẩm bẩm một cách bực bội.
Rẽ
vào một góc được sau khi đi ngang qua một tòa nhà cao và suy tàn, giờ thì tôi mới
hiểu chính xác chỗ của đám đông người mà Olfred và Mia nhắc đến.
Một
cột khói bốc ra nghi ngút từ ống khói của một căn nhà trông như tửu quán. Nóc của
căn chòi lớn đó thì lởm chởm và thiếu gạch, nhưng so với những tòa nhà gần đây,
nó là nơi duy nhất có ánh sáng ở bên trong.
Bọn
tôi thận trọng tiến lại gần, bị cám dỗ bởi các món ăn ngon và giường ấm êm.
‘Con
ngửi thấy mùi thịt nướng,’ Sylvie
nói khi chúng tôi tiến lại gần, xạo xoạt một cách thiếu kiên nhẫn.
Olfred
quay lại và cả ba bọn tôi nhìn nhau trước khi mở cửa gỗ. Mũi tôi hít lấy hít để
mùi nồng của rượu bia, mùi khói và các loại gia vị và đồ ăn khác nhau. Cả tửu
quán tràn ngập tiếng nói chuyện rôm rả lấn át lẫn nhau kèm theo tiếng leng keng
của những ly thủy tinh.
Những
người ở đây, hầu hết là đàn ông, đều quay đầu sang nhìn chúng tôi; một số người
thì má ửng đỏ, một số thì nhăn mày một cách khó chịu.
“Chúng
ta có cần đợi có chỗ ngồi
không?” Olfred nói qua lớp mặt nạ.
“Ở
những nơi như thế này thì ông sẽ tự tìm chỗ cho chính mình,” tôi nói, kéo mũ
trùm xuống để che mặt mình và cố kiềm cười trước câu hỏi ngẩn ngơ của Olfred.
Tôi
nắm cổ tay Mica và theo sau Olfred khi ông đi qua đám khách và bàn. Cũng không
khó khi nhận ra bọn họ đều liếc nhìn chúng tôi đi ngang qua. Một gã đàn ông tóc
quăng bù xù cố tình ngả ghế về sau, mong rằng sẽ đụng trúng bọn tôi để kiếm
chuyện.
“Không
có gì. Chỉ có bốn mươi hai thôi.” Mica nói và chỉ vào một con chó săn đang đứng
gần người chủ quán vạm vỡ, miệng thì chảy đầy dãi.
Tôi
nhướn mày. “Cái gì cơ?”
“Bốn
mươi hai người chứ không phải bốn mươi ba như khi nãy Mica nói. Mica tưởng nhầm
con quái mana kia là một người,” cô ấy giải thích.
“Chỉ
có bốn mươi hai người, hiểu rồi.” Tôi trả lời.
Tiếp
tục băng qua đống người kia, tôi cố gắng nghe lén bất kì đoạn hội thoại nào có
thể làm giảm bớt nghi ngờ của tôi về nơi này. Tôi có nghe được một đoạn nhỏ từ
phía bàn bên kia. “…tối nay câu được vài con cá rồi.”
Trong
khi gã đàn ông sún răng kia có thể chỉ đang nói về việc bắt được cá hồi cá chép
gì đó, nhưng ánh mắt đáng nghi của bọn họ ám chỉ rằng cuộc hội thoại đó không hề
bình thường.
Cuối
cùng thì bọn tôi cũng tìm được chỗ ngồi ở cái bàn lung lay như muốn gãy tới nơi ở
góc quán, cạnh nhà vệ sinh. Mùi hôi thối nồng nặc từ bên trong tràn vào mũi
tôi, làm tôi mất luôn cảm giác thèm ăn từ nãy đến giờ.
“Thế
mấy người dùng gì tối nay đây?” Một
nữ bồi bàn hỏi và bình thản kéo áo ngực dơ bẩn xuống để lộ cặp ngực của mình. Cô
ta nghiêng người lại gần Olfred như muốn mời gọi ánh mắt của ông ấy nhìn vào
khe ngực mình, còn cô ta thì nhìn chằm chằm bộ áo choàng đẹp đẽ của ông ấy.
Mica
và tôi dường như chẳng hề tồn tại với cô ta vì cô ta chỉ ve vãn Olfred trong
khi đợi ông ấy gọi món.
“Cho
tôi ba ly bia lạnh và bất kì món thịt hầm nào mà mấy người có tối nay cùng một
vài ổ bánh mì,” Olfred nói, không bị dao động bởi nỗ lực ve vãn của cô ta.
“Có
ngay đây,” cô ta thủ thỉ nhỏ và vuốt ngon tay dọc tay của ông ấy. Tôi không rõ
cô ta làm thế để quyến rũ Olfred hay chỉ để kiểm tra chất lượng áo khoác của ông
ấy, nhưng tôi có thể nói rằng cô ta không phải là người duy nhất nhận ra độ
giàu sang của Olfred.
“Ugh.
Đi khoe đống mỡ đó chi vậy trời?” Mica làu bàu một cách kinh bỉ.
“Lần
đầu tiên mà cả hai chúng ta
cùng
đồng quan điểm,” Olfred gật gù. “Một người phụ nữ đích thực là phải có cu cơ
bắp săn chắc và da dẻ thô ráp.”
Tôi
quyết định không tham gia cuộc đối thoại này, dành thời gian để lén liếc nhìn cả
quán. Kích hoạt Realmheart một lần nữa, tôi có thể thấy rằng có ai đó đã dùng
phép thuật cách đây không lâu.
Có một
lượng mana biến dạng bao quanh một cái bàn khá lớn ở đối diện. Ở bên đó, một nười
đàn ông trung niên mặc áo choàng trông khá bắt mắt. Khác với những người đồng
hành, trông ông ta chỉnh chu và gọn gàng hơn nhiều. Đôi mắt hí của ông ta liếc
nhìn nữ hầu bàn ăn mặc thiếu vải kia một cách dâm dục, còn tay thì cứ tu bia và
ăn trái cây. Với hốc má lõm vào và mái tóc sắp hói tới nơi, có vẻ như hai nữ bồi
bàn còn lại chẳng thèm ve vãn gì với ông ta vì ngoại hình “đập trai” của ổng.
Qua
cái cách nói chuyện lớn tiếng và thô thiển, và cách đồng bọn lúc nào cũng cười
và gật gù dù cho ông ta nói bất kì gì, chắc chắn gã đàn ông mắt hí đó là một
người khá quan trọng ở nơi này, nếu không muốn nói là người điều hành nơi này. Qua
cách mà những hạt mana tụ tập xung quanh ông ta, có vẻ như ông ta đã vận một lớp
mana để cường hóa cơ thể mình.
Nhưng
ông ta không phải là người duy nhất. Sau khi liếc nhìn xung quanh, tôi thấy một
số pháp sư augmenters khác cũng vận một lớp mana mỏng để bảo vệ cơ thể. Tuy
nhiên, độ tinh khiết và cô đặc mana của bọn họ còn thua xa đám lính Alacryan mà
tôi đã đối đầu ở gần bờ biển phía tây nam. Tôi đoán là bọn họ chỉ là lính đánh
thuê hoặc thám hiểm giả cấp thấp.
Nhưng
đó không phải là điều làm tôi phiền lòng. Không phải bầu không khí thù địch rõ
ràng hay lượng pháp sư đông đến đáng ngờ. Tôi biết cái gã đàn ông ấy. Có gì đó ở
gã đôi mắt hí biến thái và khuôn mặt méo mó của ông ta khiến tôi cảm thấy khó
chịu, nhưng tôi vẫn không rõ là tại sao.
‘’Có
chuyện gì thế?’ Sylvie hỏi sau khi để ý mối bận tậm của
tôi.
‘Sylvie, con thử nhìn sang bàn bên trái ở phía bên kia quán.
Con có nhận ra bất kì ai trong số đó không?’
Cô
khế ước thú mò mẫm một hồi rồi đút đầu ra ngoài. Đôi mắt thông minh của cô ấy
quét qua căn phòng, tập trung vào chỗ mà tôi đã chỉ, rồi tôi cảm nhận được cảm
xúc căm ghét rò rỉ ra. ‘Hắn ta là tên khốn cố ép nhà vua cho phép hắn sở
hữu con suốt sự kiện đấu giá Helstea. Hình như tên hắn là cái gì gì đó—’
Tên
đó đứng lên và khập khững tiến về quầy bar, cố gắng không đè nặng lên chân trái
và dùng một thanh gậy gỗ để giữ thăng bằng. Ngay khi tôi thấy chấn thương của hắn,
cái tên của hắn ngay lập tức xuất hiện trong tâm trí tôi cùng những kí ức hồi
xưa.
‘Là
Sebastian.’
[]
[] []
#Darkie