(Tên gốc của chương 395: Preparations)
Tiếng kim loại kêu xèo xèo
khi đổ nước sôi vào cục xương không đang cháy đen sắp hóa than trong khi phần
thịt bọc quanh cục xương dần tan chảy ra. Tiếng nước sôi rít lên khi tiếp xúc với
lớp sắt đen, làm hơi nước bốc lên. Tôi bật miệng chửi thề và lùi lại.
Con bé Ellie đập vào tay tôi
để gạt tay tôi ra khỏi chảo đang đun trên bếp. “Cứ để con này làm cho! Ai lại
đi đổ nước vào mỡ nóng bao giờ? Anh đã từng nấu ăn bao giờ chưa đấy?”
Tôi nhúng ngón tay vào đĩa
nước mà tôi dùng làm nguội chảo và búng vài giọt nước vào mặt con nhóc khi nó
đang vật vã lật miếng thịt mà tôi vừa làm cháy khét qua mặt sau. “Câu này đến từ
một mồm một con bé đã không ăn gì khác ngoài cá, chuột và nấm trong bao nhiêu
tháng rồi nhỉ?”
Regis đang ngồi ở giữa mặt
bàn, quan sát một cách thích thú, mũi cậu ta co giật hít hà theo từng luồng
khói thoảng mùi thịt. “Nhóc biết đấy, cái cục xương đó trông hết cứu được rồi.
Cứ ném đây cho ta.”
Bé Ellie thả một nắm nấm được
cắt sẵn vào chỗ mỡ và miếng thịt, cổ họng ngân lên tiếng khó chịu. “Em cá là em
có thể làm được nhiều món hơn chỉ với chuột và nấm so với số món anh có thể làm
với toàn bộ tủ đựng thức ăn của hoàng gia đấy.”
“Anh không chắc rằng đó là
điều đáng khoe đâu,” tôi cười rồi chỉ ra.
Ellie sút chân tới và đạp mạnh
vào đùi tôi. Tôi nắm lấy mắt cá chân con bé và vặn ngược chiều lại, giữ chân lại
làm con bé lộn ngược người khiến mái tóc rũ xuống nền gạch bên dưới.
“Này, chơi xấu nhá!” nó hét
lên, vung tay quều quào cố đáp trả bằng một cú đấm vô ích vì với không tới.
Tiếng một đôi dày mềm không
cột dây (turnshoes) bước nhẹ trên nền gạch thu hút sự chú ý của tôi đến chỗ cửa
nhà bếp.
(Người dịch: hình minh họa
giày turnshoes có trong chương 5 tập 8.5)
“Chào buổi sáng,” tôi nói, vẫy
mẹ bằng bàn tay đang nắm mắt cá chân nhỏ Ellie làm con em tôi lắc lư như con
búp bê vải (ragdoll). “Không có gì nhiều, nhưng con và Ellie đang thử làm chút
bữa sáng.”
(Người dịch: ragdoll là mấy
con búp bê thủ công làm từ mớ vải thừa may quần áo cho trẻ con phương tây chơi,
cái thời mà còn nghèo khó và thiếu thốn vật chất)
“Con mới thử làm bữa sáng,”
con nhóc càu nhàu, khoanh tay. “Còn anh Arthur hầu như chỉ ở đây ph— ối!” nó
hét lên khi tôi thả tay khiến nó ngã nhào xuống sàn.
“Ôi,” Ellie lầm bầm nhỏ
và nhanh trong mồm, “Ủa mẹ, có chuyện gì vậy?” Đó là lúc tôi nhận ra có những
giọt nước mắt lặng lẽ chảy dài trên má Mẹ.
“Hử? Các con đang làm — ồ.”
mẹ lau má bằng mặt sau ống tay áo. “Sao mẹ lại khóc nhỉ?” bà ấy tự hỏi
bản thân trong khi cười thành tiếng.
“Mẹ đoán chỉ là … đã lâu rồi
… không thức dậy với điều gì đó như này…”
Tôi kéo ghế ra cho mẹ ngồi,
rồi bà ấy ngồi xuống với nụ cười biết ơn và mắt đẫm nước. Cử động của mẹ vẫn
hơi chậm, nhưng ánh mắt đã ổn định hơn nhiều so với hôm trước. Regis lùi lại rồi
ngồi ngay trước mặt mẹ, và bà ấy bắt đầu vuốt ve sau tai cậu.
Ellie và tôi kèn cựa nhau lấy
đồ từ bếp xuống, nhưng cuối cùng tôi để con bé thắng, thay vào đó tôi đi lấy đống
đĩa và dụng cụ gỗ để dọn bàn ăn. Ellie bưng lên cả chồng thịt hơi cháy, trứng,
nấm, rau luộc, đậu đỏ và cả mớ lươn nào đó — được đánh bắt từ một hồ ngầm gần
đây— mà con Ellie khẳng định là ngon, và chúng tôi cùng nhau múc lên đầy ba
đĩa.
Mẹ cắt phần bị cháy của miếng
thịt mà chúng tôi đưa và cho Regis ăn, còn cậu ta thì nhanh chóng lấy nó khỏi
cây nĩa trên tay bà ấy.
“Cậu ta sẽ đòi tiếp mấy thứ
như này nếu mẹ chiều cậu ta quá, mẹ à,” tôi buột miệng nói.
Bà ấy gạt đi lời tôi nói.
"Ồ, ổn mà. Con không nghĩ rằng với những gì cậu ta đã làm để giúp đỡ mọi
người quanh đây, cậu ấy xứng đáng được thưởng sao?”
Cặp mắt cún con quá khổ của
Regis sáng bùng lên khi nhìn chằm chằm vào mẹ tôi như thể bà vừa mới trao thưởng
cho cậu ta. “Bà có tin rằng gã này không bao giờ cho tôi ăn không?”
“Cậu nhận được cả đống
aether còn gì,” tôi lầm bầm khi mẹ chìa ra nửa cây nấm cho cậu ta.
Regis nhìn nó với vẻ lưỡng lự
rồi nói, “Có thể cho tôi đổi cái này thành mớ thịt nữa không?”
Lông mày mẹ nhướng lên. “Điều
quan trọng là cậu phải có một chế độ ăn uống lành mạnh và cân bằng, Regis à,”
cô nhẹ giọng trách mắng.
Regis chớp mắt với vẻ ngốc
nghếch, rồi trườn người tới rón rén ngoạm lấy cây nấm từ tay cô, nhai nó với vẻ
chán nản rõ ràng đến nỗi Ellie tội nghiệp cậu ta và ném miếng lươn trong đĩa
con bé cho cậu ta, cười khúc khích khi cậu ta bay tới vồ lấy nó và nuốt chỉ bằng
một phát ngoạm.
Tôi nghĩ đây thực sự là một
cảnh hoành tráng đáng chiêm ngưỡng từ chính hiện thân của Sự Hủy Diệt
(Destruction) vĩ đại.
“Dù sao thì, hôm nay mẹ thấy
như nào?” Tôi hỏi Mẹ khi mổ một khúc lươn trên đĩa của mình, hạ giọng nhỏ nhẹ,
nhưng vẫn quan sát mẹ kĩ lưỡng.
“Đỡ hơn nhiều,” bà ấy nói.
Đôi mắt đỏ ngầu, mệt mỏi nheo lại vì cảm kích. “Cảm ơn con, Arthur à, nhưng con
không cần phải lo lắng cho mẹ. Con đã có quá nhiều thứ trong đầu rồi.”
Ellie tỏ vẻ chế giễu và mở
miệng định nói, nhưng dừng lại khi thấy mẹ nhìn nó. Con em tôi mất một lúc để
nhai xong rồi nuốt, và nói, “Anh ấy để chúng ta nghĩ rằng anh đã chết trong nhiều
tháng, phải không? Cứ cho ảnh thêm cái để lo.”
Nụ cười dịu dàng của mẹ tôi
dao động, và tôi với tay qua bàn để siết chặt tay mẹ. “Con thực sự có rất nhiều
thứ trong đầu. Nhưng mẹ và Ellie luôn đứng đầu trong cái mớ lo không ngừng tăng
thêm đó.”
Mẹ đảo mắt xuống cái đĩa
đang ăn, nhưng tôi vẫn thấy ánh sáng lan tỏa trong đôi mắt ấy. Ellie nhìn bà, một
cái cau mày nhỏ xuất hiện trên nét mặt trưởng thành của con bé. Tôi chuyền hầu
hết mấy miếng thịt cháy trên đĩa mình cho Regis, và cậu ta nhai ồn ào, không để
ý đến mọi thứ ngoại trừ mớ thức ăn nóng hổi trước mặt, mặc dù tôi có thể cảm nhận
được cảm giác hồi hộp từ cậu ta khi ăn chung với cả nhà thông qua sự kết nối
tinh thần của chúng tôi.
Một lúc sau chúng tôi ăn
trong im lặng, nhưng không phải kiểu im lặng gây khó xử hay căng thẳng. Thay
vào đó, nó rất thoải mái. Dễ chịu. Dễ chịu hơn các bữa ăn đã diễn ra trong một
thời gian rất dài trước đây, kể từ cuộc tấn công vào thành phố bay Xyrus.
Đầu tôi vụt nghĩ rằng điều
này giống như một cuộc đời khác, nhưng tôi biết nó không phải sự thật. Tôi đã sống
một kiếp khác trên Trái đất, và rồi, ở Alacrya, tôi đã vờ như ai đó không phải
tôi, hồi sinh một phần đã chết của tôi trong khi tôi được đầu thai ở Dicathen
này. Tôi rất cần Grey tồn tại ở đó, cũng như tôi muốn chỉ là Arthur, khi phải sống
như Grey một lần nữa đã nhắc nhở tôi lý do tại sao tôi lại trở thành cậu ấy
ngay từ đầu.
Cho đến khi cuộc chiến này kết
thúc, thực sự kết thúc, tôi không thể để Grey đi. Vẫn chưa được.
(Người dịch: ý của tác giả
câu này là Art vẫn chưa thể rũ bỏ tính cách của (King) Grey là lạnh lùng, cô độc,
không tin tưởng ai, thứ tính cách mà Art đã khoác lên mình khi ở Alacrya)
“—thur ơi?”
“Dạ?” Tôi hỏi, nhận ra mẹ vừa
nói điều gì đó.
“Mẹ mới nói rằng mẹ thực sự
nên đến trung tâm y tế để kiểm tra tình hình ngay bây giờ khi mẹ cảm thấy khỏe
hơn chút.” Trông bà ấy có vẻ hơi bối rối khi huých nửa đĩa thức ăn đầy ắp của
mình về phía Regis. “Chỉ có vài ba pháp sự hệ emitter ở cả thủ đô này, và họ
đang hóng mẹ có mặt ở đó. Vả lại, mẹ chắc rằng con cũng có chuyện riêng phải
làm.”
Trước khi tôi kịp đáp lời,
Ellie giật mình. “Ồ! Nhắc mới nhớ! Con đã nói với cô Saria Triscan rằng hôm nay
con sẽ giúp cô tái định cư những người tị nạn chủng elf. Hầu hết họ ở trong mấy
căn nhà tạm ở các tầng thấp hơn, mà giờ mấy chỗ đó đã bị thiệt hại khá nặng
trong cuộc tấn công vừa rồi. Tụi con sẽ bắt đầu chuyển họ đến những nơi lâu dài
cố định hơn để ở,” con bé giải thích thêm khi đẩy ghế rồi nhoài người ra khỏi
bàn ăn.
Cùng lúc đó, có tiếng nổ
“pop” một cái và đột ngột xuất hiện một thân hình to lớn đầy lông lá xô cái bàn
sang một bên, làm Regis suýt ngã xuống sàn.
“Boo ơi!” Con bé Ellie bực tức
nói. “Tớ không gặp nguy hiểm mà! Và tớ đã nói với cậu không được thình lình biến
cái ào ra như vậy trong nhà!”
Con gấu hộ mệnh càu nhàu, và
mắt Ellie nheo lại. “Đừng trách tớ. Cậu đã tự làm gián đoạn giấc ngủ trưa của bản
thân bằng cách bảo vệ tớ thái quá như thế đấy.” Con gấu rên lên một tiếng làm
rung chuyển mấy chiếc đĩa trên cái bàn đang tỳ sát vào thân nó.
Mẹ chen người vòng qua Boo,
thân cậu ta phải chiếm một phần lớn diện tích căn bếp, nhưng dừng lại dựa vào
khung cửa rồi nhìn tất cả chúng tôi, mỉm cười rạng rỡ. “Vậy mẹ sẽ gặp cả hai đứa
con ở nhà vào bữa tối, được không? Mẹ sẽ nấu bữa tối.” Nụ cười của bà ấy hơi
chùng xuống, lông mày nhăn lại còn biểu cảm tỏ vẻ hối lỗi. “Lần này sẽ nấu gì
đó ấm nóng hơn.”
“Nghe tuyệt đấy,” tôi nói, cố
nở nụ cười ấm áp nhất mà tôi có thể làm được với mẹ.
Bà ấy cười đáp trả, rồi vẫy
chào, và biến mất sau cái thân to đùng của Boo. Tôi nghe thấy tiếng cửa nhà mở
rồi lại đóng, xong quay sang Ellie. “Em nghĩ mẹ có ổn không?”
Ellie đang cào cào vào giữa
hai mắt con Boo. “Em đã không nhìn thấy bà ấy cười như vậy kể từ khi bố mất.”
Không nhìn tôi, con bé đè
vai vào hông Boo và bắt đầu đẩy. “Đi nào đồ ngốc to xác, ta cần tìm cách đẩy
thân cậu len qua khung cửa chính.” Con bé chợt dừng lại và quay mặt ngang vai
nhìn tôi có vẻ thăm dò. “Anh có muốn đi cùng với tụi em không? Những người tị nạn
... họ đang trong giai đoạn khó khăn. Gặp anh có thể làm họ cảm thấy đỡ hơn.”
Tôi nở một nụ cười hối lỗi
trước khi lắc đầu. “Anh sẽ đến, El à, nhưng anh có nhiệm vụ riêng phải làm.” Những
thứ cần phải lo trước khi anh có thể rời khỏi đây, xém tí thì tôi nói thêm.
Con bé đảo mắt kiểu chán chường,
nhưng vẫn nở nụ cười vừa nhân hậu vừa hiểu chuyện. “Phải, phải, em biết mà, có
rất nhiều việc phải làm ngay bây giờ để giải cứu thế giới, và chỉ có một ông
anh cả thôi. Vậy thì… hẹn gặp sau.”
Ellie vòng qua người Boo, cậu
ta đang quay lại quan sát tôi một cách ân cần, khuôn mặt nhăn lại giữa bả vai
và tường trước khi càu nhàu và quay lại đi theo con bé. Cậu ta suýt làm lật úp
cái bàn, và phải ép thân mình chui qua cửa nhà bếp trước, rồi qua cửa nhà dẫn tới
một loạt các đường hầm thông nhau chằng chéo của Viện Earthborn.
Nụ cười của tôi vụt tắt. Tôi
nhìn quanh căn hộ một cách khao khát, ước gì mình có thể ở lại lâu hơn. Thời
gian ở với gia đình là một phần rất cần thiết nhưng lại làm trì hoãn những nhiệm
vụ của tôi, mà thời gian thì đang chống lại tôi, và vẫn còn quá nhiều việc phải
làm.
Tôi đã dành phần lớn thời
gian tối qua để nghiên cứu các vật tạo tác dùng để truyền sức mạnh trong lúc cả
nhà đi ngủ. Sự tương tác qua lại giữa aether và mana quanh chúng không giống bất
cứ thứ gì tôi từng thấy trước đây, nhưng nó lại khiến tôi nhớ đến cõi linh hồn
(soul realm) trong quả cầu aether, nơi tôi đã luyện tập với Kordri được
rất lâu. Các món tạo tác này không chứa đựng thêm một chiều không gian nữa,
nhưng chúng cũng không chỉ đơn giản là cái kho chứa cả khối lượng lớn mana. Nó
gần giống như tên Kezess đã thu hút và chứa đựng tiềm năng (potential), và bằng
cách sử dụng mấy cái vật tạo tác này, cái tiềm năng đó sẽ dồn hết qua một sinh
vật sống.
Đó là một khái niệm khó khăn
để tóm gọn trong đầu mình, nhưng tôi chỉ mới ở những bước đầu của sự hiểu biết.
Tôi cần phải thấy các vật tạo tác này đang được sử dụng ra sao, nhưng không để
kích hoạt bất kỳ sức mạnh nào có thể hủy diệt cả lục địa mà bà Rinia đã thấy.
“Vậy,” Regis nói, cắt ngang
dòng suy nghĩ của tôi. Tôi có thể cảm nhận được sự mãn nguyện của cậu ấy với
cái bụng ních đầy ắp đồ ăn nhà làm. “Khu Tàn Tích (Relictombs) để trở thành mục
tiêu đẹp nhưng xếp chót bảng, rồi ta quay lại làm đội Ba - Đờ nhé?”
(Nguyên văn: “Relictombs for
a top-off, then back to being the Triple Ds?” Câu này ẩn ý tiếng Anh, khó tạo
câu chữ trong tiếng Việt được)
“Tôi…” Tôi nói lắp bắp, dùng
một tay vuốt mặt, rồi quay sang cau có với tên bạn đồng hành của mình. “Gì chứ?”
“Đội Đẩy cả Đi-ca-then. Cậu
biết đấy, tôi và cậu, đội Ba - Đờ.”
(Nguyên văn: “Dicathen’s
Dynamic Duo” tạm dịch là “Bộ Đôi Linh Hoạt gánh cả Dicathen”)
Quyết định khôn ngoan nhất
là không nên giao chiến với Regis ở mặt trận võ mồm này, thay vào đó tôi nói,
“Chưa có thời gian cho Khu Tàn Tích đâu. Đầu tiên, ta cần đảm bảo rằng chúng ta
có thể rời khỏi thủ đô Vildorial mà nó không rơi ngay tức khắc vào
tay lực lượng của tên Agrona.”
Tôi đã để bé Ellie đi trước
khoảng một hoặc hai phút, rồi theo sau con bé rời khỏi nhà. Thay vì đi về phía
lối ra, tôi đi sâu hơn vào Viện Earthborn.
Đúng như dự đoán, tôi thấy
lão Gideon, Emily, và nhóm pháp sư người lùn từ đội của họ đã vào việc rồi.
Lão phát minh già hầu như không
buồn liếc tôi khi tôi bước vào phòng thí nghiệm, rõ là ổng không ngạc nhiên khi
thấy tôi. “Tôi chỉ mới gặp cậu cách đây mười sáu tiếng, ít nhất bốn tiếng trong
số đó tôi dùng để ngủ. Thế nên chưa có gì mới lúc này đâu, Arthur.”
Emily đang cầm một đôi đũa
phép và cúi xuống cây trượng đính cục pha lê trên đầu, vẫy một cây đũa về phía
tôi. Nó phát ra tiếng còi o o nghe chói tai. Cô ta giật mình nhảy
lên, cười bẽn lẽn và trả nó lại chỗ cũ.
“Gideon, tôi cần ông tập hợp
lại bất cứ thiết bị giám sát đầu ra của mana nào mà ông có thể gom được,”
tôi nói. “Gặp tôi ở tiền đồn đánh cá Three Lakes (Tam Hồ) sau một giờ nữa.”
Lão Gideon chậm rãi đặt mấy
tờ ghi chú đang đọc xuống, đưa một ngón tay vào tai và ngoáy ngoáy một chút, rồi
lắc đầu và nở một nụ cười với tôi trông ngọt ngào đến phát ớn. “Thứ lỗi cho
tôi, Arthur à, nhưng tôi thề rằng có vẻ như cậu vừa tiến vào phòng thí nghiệm của
tôi và bắt đầu ra lệnh cho tôi mà không cần để ý bối cảnh hoặc cân nhắc về các
dự án đang thực hiện — các dự án mà cậu đã nói đi nói lại với tôi rằng đó là ưu
tiên cao nhất của chính cậu đấy.”
Nhìn trân trân vào mắt ông
ta, tôi tiếp tục nói. “Emily, tôi cần cậu giúp tìm cả ba Lance Mica, Varay và
Bairon, và đưa họ đến gặp chúng ta.”
Cô gõ nhẹ các cây đũa phép
vào nhau hai lần, rồi cẩn thận đặt chúng bên cạnh cây trượng. “Ừ, không thành vấn
đề.” Khi đi nhanh ngang qua Gideon, cô ấy lấy tay đẩy miệng ông ta đóng lại
giùm ổng, vì cái miệng ấy đang há ra trong khi lão tiếp tục nhìn tôi chằm chằm.
Ông ta lườm sau lưng cô ấy
khi cô đi ra khỏi cửa, nhưng rồi sự chú ý lại nhanh chóng quay trở lại tôi.
“Đây là lúc mà sự nhạy cảm về
thời gian thì còn hơn các dự án khác của chúng ta nữa,” tôi nói với vẻ an ủi.
“Hẹn gặp sau một giờ nữa, Gideon à.”
“Blè,” ông ta nói, càu nhàu,
nhưng vẫn bắt đầu chạy chộn rộn khắp phòng thí nghiệm để lấy đồ đạc và thảy
chúng lên cái bàn trống. “Vậy là hẹn gặp sau một giờ nhé. Nhưng tại sao cậu lại
bắt tôi lê cái xác già này xuống tận Three Lakes?”
“Hẹn gặp lại ông ở đó,” là
những gì tôi nói trước khi quay lại và rời khỏi phòng thí nghiệm.
Đôi chân tôi nhanh chóng rời
khỏi Viện Earthborn, đi xuống đường đại lộ quanh co, băng qua nhiều nhóm thợ
đang xây lại các công trình bị phá hủy trong cuộc tấn công của
phe Alacrya, và tôi đã ra khỏi một các đường hầm nối với tầng dưới cùng của
thành phố.
‘Cậu có chắc mấy thứ này sẽ
suôn sẻ chứ?’ Regis hỏi. Từ suốt nãy giờ cậu ấy cứ căng thẳng trong âm thầm vì
tôi từ chối chấp nhận cái “tên đội” mà cậu ta đề xuất ban nãy, nhưng sự khó chịu
đấy cuối cùng đã dịu lại thành một kiểu đồng ý suy nghĩ lại chứ không đơn giản
là đồng ý không đặt tên.
Nó phải ổn, tôi nghĩ thế, mặc
dù cả hai ta đều cảm thấy tôi không chắc lắm về phương pháp này. Chúng ta không
thể cứ tổ chức chiến tranh bên dưới lòng sa mạc mãi được. Ta cần phải ra khỏi
đây và chống lại lực lượng Alacrya đang chiếm đóng khắp Dicathen.
Những suy nghĩ này như lướt
qua đụng phải một hàng rào do dự trong tâm trí tôi. Bởi vì, tôi muốn rời đi
cũng nhiều như tôi cần phải ở lại. Thủ đô Vildorial giờ là tâm điểm của
cuộc chiến giành lại cả Dicathen, và tất cả người dân hai vùng Sapin và Darv đều
cần chúng tôi. Nhưng tất cả những gì tôi đã làm để giữ an toàn cho người dân
thành phố này sẽ chẳng ích gì nếu gã Agrona lại tung ra một cuộc tấn công khác
trong khi tôi đi vắng.
Tôi cần các Lance ở đây để bảo
vệ thành phố khi tôi vắng mặt, và để làm được điều đó, họ cần phải vượt qua sự
giam hãm sức mạnh hiện tại của họ.
Các đường hầm giữa thủ
đô Vildorial và khu vực Three Lakes rất mát mẻ và đi lại dễ dàng,
nghĩa là tôi yên tâm để nghiền ngẫm những gì tôi hy vọng sẽ làm được.
Hầu hết chỉ là tôi sắp xếp lại
suy nghĩ của mình, cố nhớ lại tất cả những gì tôi đã nghe về cả hai bộ tạo tác
của lũ asura: những thứ được trao cho các vị vua của Dicathen để tạo ra các
Lance, và những thứ mới kia, mà dường như, có thể làm một pháp sư đủ mạnh để chống
lại lũ Scythe.
Bé Ellie đã kể cho tôi mọi
thứ có thể về cuộc trò chuyện giữa ông Virion và gã Windsom, và sau đó là bà
Rinia với ông Virion. Và tất nhiên, chính ông elf già ấy đã trực tiếp giải
thích cho tôi về các đồ tạo tác biến một pháp sư thành Lance khi ông chọn tôi
làm Lance, nhưng tôi vẫn chưa hiểu nhiều về cách bọn asura đã tạo ra chúng như
thế nào.
Hết suy nghĩ này đến suy
nghĩ khác chiếm cứ ngập tâm trí tôi trong lúc bước đi cho đến khi không khí trở
nên ẩm ướt và đầy mùi từ mấy cái hồ ngầm tràn ngập các đường hầm. Mùi nước biển
mặn, mùi rong biển và cả mùi xộc lên từ những cây nấm khổng lồ kết hợp với nhau
tạo ra một mùi hương của thế giới khác, cứ như tôi đang bước ra khỏi Dicathen để
đến một nơi cổ hơn và hoang dã hơn. Tiếng nước chảy ầm ầm từ đằng xa sớm có thể
được cảm nhận qua nền đất khi vừa tới đây.
Đường hầm bị chặn lại bởi
dãy tường bằng đá gra-nít thô, nhưng cổng vào vẫn mở. Ngay sau cổng, vài tòa
nhà co cụm lại với nhau quanh mép cái hồ đầu tiên trong số ba cái hồ được dùng
để đặt tên cho nơi này. Có một bến tàu bằng đá dọc theo bờ hồ, và một vài chiếc
thuyền vuông, đáy phẳng nổi gần bến. Nhưng bữa nay tiền đồn này trống không như
tôi đã dự đoán; vì phần lớn dân số bị giữ lại trong thành phố Vildorial đề
phòng trường hợp có cuộc tấn công khác.
Cái hang rất lớn, thậm chí
còn lớn hơn cả khu tị nạn (sanctuary) hồi trước. Mặc dù không cao bằng thành phố Vildorial vốn
xoắn ốc nhiều tầng, nhưng diện tích nó trải dài mãi, hồ nước khổng lồ đầu tiên
đổ vào hồ thứ hai bằng một loạt thác nước có bề ngang rộng, rồi từ hồ thứ hai lần
lượt chảy vào hồ thứ ba trải dài gần một dặm dọc theo hang động này.
Khi tôi đi giữa hàng loạt
các tòa nhà trống, tôi quan sát tất. Mặc dù mùi là thứ mà cần một lúc để mũi
thích nghi, nhưng có một vẻ đẹp đầy cảm hứng ở nơi này.
Regis nhảy ra khỏi cơ thể
tôi và đi dạo bên cạnh. “Cậu biết đấy, cảm giác này gần như khiến tôi nhớ đến
Khu Tàn Tích.”
“Biết đâu người djinn đã lấy
cảm hứng từ những nơi như thế này,” tôi ngẫm nghĩ trong lơ đãng. “Hay thậm chí
tạo ra nơi này không chừng.”
Dọc theo một bên bờ hồ, một
rừng các cây nấm khổng lồ mọc lên từ mặt đất đầy rêu, và phía bên kia là vách
hang với những đường họa tiết dạng vân ngang gồm hai màu cam pha trắng. Nước biển
liên tục chảy qua những ụ muối đặc, tràn vào hồ và tỏa ra mùi nước muối mặn mà
tôi đã nhận thấy ban nãy.
Sâu trong làn nước tối, có
thể thấy những sinh vật phát sáng tự nhiên đang trôi chầm chậm, giống như những
ngôi sao mờ đang băng qua bầu trời đêm.
Ít nhất là trong thời gian
ngắn ngủi này, đây là một sự phân tâm dễ chịu.
Nhưng điều đó kéo dài không
lâu khi có tiếng bước chân thông báo sự xuất hiện của những người khác, và sự
mê mẩn về nơi này tan mất.
Các anh chị nhóm Lance đến
trước, cách di chuyển thấy có chủ đích. Chị Mica dẫn đầu. Con mắt còn lại của
chị khóa chặt tầm nhìn vào tôi khi chị ta bước qua cánh cổng dẫn vào hang động,
ánh nhìn từ con mắt ấy cũng cứng rắn như viên đá đen đặt ở hốc mắt đầy sẹo do bị
thằng Taci hủy hoại. Mặc dù cảm thấy thoải mái trong đường hầm ở quê nhà chị,
nhưng chị Mica vẫn thiếu một thứ gì đó; chị ấy mất mát nhiều hơn một con mắt
khi chị Aya chết.
Chị Varay ở ngay
sau chị ta, trông cao ngất ngưởng so với bà chị người lùn, nét mặt vẫn luôn có
vẻ cam chịu nhẫn nhịn và khó đọc vị như mọi khi. Mái tóc ngắn màu trắng của chị
dường như phát sáng trong ánh sáng khuếch tán của thế giới dưới lòng đất, tạo
cho chị ta một phong thái có vẻ thần bí. Cánh tay bằng băng tạo từ ma thuật cố
định và không di chuyển, nhưng bên trong cánh tay bằng xương bằng thịt ấy vẫn
có một luồng năng lượng di chuyển liên tục đầy vẻ tức giận khi bàn tay bồn chồn,
làm hơi chút giảm đi tính uy áp trong sự hiện diện của chị.
Cuối cùng là anh Bairon tiến
vào sau họ vài thước. Ánh mắt anh dõi theo gót chân của hai cô bạn đồng hành,
nhưng có vẻ không nhìn chúng, hay nói đúng hơn, có vẻ đang nhìn xa xăm đâu đó
chứ không phải mặt đất lồi lõm dưới chân. Tôi băn khoăn không biết suy nghĩ của
anh đang ở đâu, cảnh tượng vô hình nào đang diễn ra trước đôi mắt vô hồn ấy khiến
anh cau mày đến độ nhăn mặt.
(Người dịch: “thước” ở đây
là “thước Anh” tức là đơn vị đo lường “yard”)
Tôi đứng chỗ bến tàu, còn cạnh
tôi, Regis ngồi bằng hai chân sau và đợi họ đến chỗ chúng tôi.
Chị Varay mở lời
trước. “Tôi hy vọng là cậu không kéo chúng tôi xuống tận đây chỉ để đi câu cá,”
chị nói, mắt tập trung nhìn vào một trong số mấy cái thuyền đang trôi sau lưng
tôi.
Tôi cười khẽ, thu hút ánh
nhìn hoài nghi các Lance khác. “Em thực sự đã học cách mãi dũa phản xạ và điều
chỉnh nhận thức nhờ bắt cá bằng tay không khi còn là thằng nhóc…” Tôi tự tập
trung lại và phớt lờ suy nghĩ linh tinh đó. “Dù sao thì, không phải, em nghĩ
các anh chị đã qua giai đoạn đó trong quá trình huấn luyện bản thân rồi.”
“Vậy ta ở đây để em huấn luyện
cho bọn chị phải không?” Chị Mica khoanh tay và nhướng mày lên hỏi. “Cô gái
mang họ Watsken kia đã biết một chút chi tiết khi bé ấy chuyển lệnh
triệu tập của em.”
“Nó không phải lệnh triệu tập,”
tôi chỉnh lại nhẹ nhàng, “một lời mời thôi. Em nghĩ các anh chị đều hiểu những
gì đang xảy ra, những gì đang ở mức bị đe dọa. Khi gã Agrona gửi đội Wraith của
hắn đi bắt em, gã ta hẳn đã nghĩ rằng bọn chúng là quá đủ để bắt hoặc giết em,
và tương tự như vậy, hai Scythe và một retainer sẽ đủ giành lại quyền kiểm soát
thành phố Vildorial và xóa sổ những gì còn lại của cuộc kháng chiến
đang chống hắn.”
“Và nó lẽ ra là thế,” Chị
Mica cau có nói thêm. “Mặc dù đã dồn mọi khả năng cả bọn có, nhưng tất cả những
gì tụi tôi đây có thể làm là cầm chân chúng một thời gian. Nếu không có vũ khí
mới của anh Bairon, tụi tôi đã không tồn tại được lâu như vậy.”
“Cậu nghĩ hắn ta sẽ leo
thang giao tranh nữa chứ?” Chị Varay hỏi, mấy ngón tay gõ liên tục
vào đùi mình.
“Hắn sẽ làm thế.” Tôi bắt đầu
đi tới lui trước mặt ba anh chị nhóm Lance, mắt họ đều nhìn theo tôi kĩ lưỡng.
“Việc em đánh bại đội Wraith và cuộc tấn công liền sau đó của em vào đất Alacrya có
thể khiến hắn tạm dừng, nhưng không được lâu đâu.” Tôi đột ngột ngừng đi qua đi
lại, làm năng lượng đến từ sự căng thẳng của mình bị dồn lại một cách mạnh mẽ.
“Mặc dù em đã ngăn bất kỳ tên Wraith nào quay lại báo tin cho hắn, nhưng sự thật
rằng em thậm chí còn giết chúng đã giúp hắn hiểu rõ hơn về sức mạnh của em.”
Tôi ngừng một chút để dành
thời gian sắp xếp lại suy nghĩ của mình, sau đó nói, “Sự thật là, ba anh chị
đây không đủ mạnh để bảo vệ thành phố này mà không có em.”
Chị Varay cứng đơ
người như tượng băng. Khuôn mặt chị cũng không phản lại cảm xúc ấy, nhưng hai
người còn lại ít khả năng che giấu sự ngạc nhiên và thất vọng của họ hơn.
Chị Mica nghiến răng và vô
tình khiến bản thân trở nên nặng đến mức những hòn đá nhẵn, hơi trơn phủ sàn bến
tàu nứt ra dưới chân chị ta.
Anh Bairon dọng mạnh đuôi
cây giáo xuống đất và đứng thẳng lên, nhìn tôi một cách thách thức và nhắc tôi
nhớ lại rõ ràng về con người anh những ngày xưa cũ. “Chúng ta có thể, Arthur à.
Và tôi cho rằng cậu biết điều đó, nếu không cậu đã không gọi chúng tôi đến
đây.”
“Em hy vọng là anh đúng, anh
Bairon,” tôi nói, làm dịu giọng mình. “Bởi vì, nếu các anh chị không thể làm được
vậy, thì em cũng không biết làm cách nào ta có thể giành lại quê hương mình,
đánh bại tên Agrona và ngăn chặn bất kỳ cuộc tấn công nào nữa từ gã Kezess
Indrath.”
“Vậy thì ta đừng lãng phí thời
gian nữa,” Anh Bairon nói, cằm anh ấy hếch lên khi lòng kiêu hãnh của anh ta
đang đấu tranh chống lại những lời tôi vừa nói. “Tôi sẽ chiến đấu cho đến khi
lõi nứt ra và cơ bắp kiệt quệ nếu nó mang lại cơ hội vượt qua những rào cản bị
đặt lên người chúng tôi với vai vế là các Lance. Chỉ cần cho chúng tôi biết cậu
muốn chúng tôi làm gì, Arthur.”
Mới cách đây không lâu, tôi
đã rất ngạc nhiên khi biết rằng gã quý tộc Bairon Wykes đây rất sẵn lòng và cởi
mở đi theo sự dẫn dắt từ tôi, nhưng ngay cả trong thời gian ngắn như vậy, tôi
có thể thấy anh đã trưởng thành đến mức nào. Chiến tranh đã trui rèn anh ta
thành một nhà lãnh đạo thực sự theo cách mà không ai trong chúng ta có thể ngờ
tới, đặc biệt là sau khi anh ấy suýt chết dưới tay Cadell.
“Cảm ơn, anh Bairon, nhưng
đây sẽ không phải là kiểu đào tạo như vậy,” tôi nói.
Trước khi họ có thể đặt thêm
nhiều câu hỏi, tất cả chúng tôi đều nghe thấy tiếng bước tới càu nhàu của
Gideon khi ông ta bước qua cánh cổng mở cùng với Emily, cậu ta đang lảo đảo bên
cạnh dưới một đống thiết bị ôm ngập tay. Mũi ông ta nhăn lên, có lẽ là vì ngửi
thấy mùi mặn, và tỏa ra sự kích thích đơn thuần. “Với mọi điều trên trời dưới đất
mà cậu nghĩ, tại sao chúng ta lại phải xuống tận cái vực thẳm này để làm gì,
tôi sẽ không bao giờ biết nổi.”
“Giờ chúng ta đều ở đây cả,
ta hãy bắt đầu thôi,” tôi nói, ra hiệu cho mọi người đi theo tôi.
Chúng tôi đi vòng quanh mép
hồ cho đến khi cả bọn đứng dưới những tán mũ rộng lớn đầy các màu sắc tím, xanh
lá cây và xanh lam của những cây nấm khổng lồ. Chị Varay với tôi — và
ở mức độ lùn hơn nào đó, là cả Regis cứ khăng khăng kéo chiếc túi da duy nhất —
là những người đã giúp Emily mang thiết bị, rồi đặt nó trên một loạt các tảng
đá phẳng sau khi Emily làm ầm ĩ về việc đòi dọn sạch bụi bẩn và rong rêu. Tôi
hướng dẫn cả ba anh chị đội Lance đến ngồi gần lớp rong rêu dày bên cạnh mặt nước
hồ phẳng lặng.
Trong khi Gideon và Emily bắt
tay vào việc sửa soạn trang thiết bị của họ, tôi nói chuyện với các Lance. “Nếu
chúng ta hy vọng có thể vượt qua những rào cản nhân tạo đặt trên người các anh
chị, ta cần hiểu rõ hơn về chúng. Những lời huyết thệ mà mọi người đã thực hiện
vốn dĩ không hạn chế khả năng phát triển mạnh mẽ hơn của mọi người, đó là điều
mà gã Kezess Indrath đã thiết kế như thế ngay từ đầu khi hắn đưa
cho Dicathen các đồ tạo tác chuyển hóa thành Lance, và em có thể cho các anh chị
biết chính xác tại sao em biết, bởi vì em đã thấy tên Agrona làm điều tương tự
với người của hắn ấy.
(Người dịch: Huyết thệ = lời
thề máu = blood oath)
“Bọn chúng đã biết những người
hạ đẳng (lessers) có khả năng gì. Chúng biết rằng chúng ta có thể vươn xa hơn
chúng, nếu có cơ hội.” Rồi tôi nói với họ về người djinn, làm thế nào họ đạt được
sự thấu thị sâu sắc (insight) về aether và mana vượt xa những gì chủng dragon
có thể làm, và khi Kezess không thể ép buộc họ chia sẻ sự thấu thị
sâu sắc đó, hắn ta đã tiêu diệt họ ra làm sao.
Chị Mica chửi rủa. Anh
Bairon quỳ gục xuống và cau mày trầm ngâm. Đôi mắt chị Varay dán chặt
vào tôi khi chị chăm chú lắng nghe từng lời tôi nói.
“Bọn asura mong đợi - hay
đúng hơn là có nhu cầu - áp đặt sự kiểm soát lên mọi thứ. Gia tộc Vritra lai tạo
con người như quái mana, trong khi gia tộc Indrath chỉ đứng từ xa đóng vai vị
thần, chọc ngoáy và thúc đẩy xã hội của chúng ta biến thành bất kỳ hình dạng
nào mà hắn ta mong muốn, và rồi, giống như một đứa trẻ mới biết đi đang giận dữ,
gạt đổ tất cả đồ chơi của nó nếu nó cảm thấy khó chịu.
(Nguyên văn: “The
asura expect—demand—control above all else.” Câu này của tác giả có cùng
lúc hai nghĩa: một là “bọn asura này có nhu cầu áp đặt sự kiểm soát lên mọi thứ”;
hai là “trong các nhu cầu thì cái nhu cầu cao nhất và được ưu tiên nhất của đám
asura là nhu cầu kiểm soát mọi thứ”. Và mình nghĩ, tác giả cố tình viết kiểu
này để dùng cả hai nghĩa. Thêm nữa, là có vẻ tác giả lỗi đánh máy nên sai ngữ
pháp từ “expect”)
“Khi đưa cho lục địa
Dicathen các món đồ tạo tác chuyển hóa thành Lance, gã Kezess đã đảm
bảo rằng một số dòng họ nhất định được giữ an toàn và được giữ sức mạnh chính
trị trong khi cố tình làm suy giảm sức mạnh phép thuật của những dòng họ này -
trong khi đấy mới là thứ sức mạnh thực sự của thế giới này. Hắn đã làm điều này
bằng cách giao các anh chị đây cho những dòng họ đấy. Vốn là những người bảo vệ
mạnh mẽ đã bị ràng buộc bởi huyết thệ để tránh cho việc phản bội các dòng họ
này. Và dường như vậy vẫn còn chưa đủ, để giữ cho bất kỳ người nào hoặc quốc
gia nào không phát triển quá mạnh về mặt phép thuật, hắn đã ngăn các anh chị
không có đủ sức mạnh để trở thành mối đe dọa cho các gia tộc asura.
“Tên Agrona thì lại có hướng
đi tốt hơn. Hắn ta cần những người lính có thể chiến đấu với đám asura, cho dù
đó là những gia tộc khác vẫn còn ở lục địa Epheotus hay chính người
dân của gã Kezess nếu họ muốn trở cờ chống lại Kezess. Nhưng hắn
phải chắc chắn rằng bọn chúng không thể phát triển đủ mạnh để thách thức hắn,
và vì vậy hắn trở thành vị thẩm phán tối cao có quyền quyết định xem ai có được
ma thuật ở lục địa Alacrya.
“Sự thật là, bọn asura không
muốn chúng ta tiến bộ bởi vì chúng coi đó là mối đe dọa hiện hữu đối với quyền
thống trị của chính chúng.”
Một thứ gì đó làm nước bắn
tung tóe ở giữa hồ, những gợn sóng dần di chuyển từ từ lan ra ngoài và làm rung
động bề mặt đang tĩnh lặng như gương.
Chị Varay chỉnh lại
tư thế ngồi của mình trên mặt đất đầy rêu. “Cậu đã dành nhiều thời gian ở với bọn
asura hơn bất kỳ ai trong số chúng ta, Arthur à. Chúng tôi tin tưởng nhận định
của cậu về vấn đề này, nhưng nó đặt ra câu hỏi khẩn thiết là: chúng tôi phải
làm gì với nó đây?”
Tôi chìa tay ra với chị ấy.
Chị nắm lấy nó, và tôi kéo chị đứng dậy. “Trước đây em không hiểu nó, nhưng con
rồng đầu tiên em từng gặp đã gợi ý rằng điều gì sẽ đến, và câu trả lời là gì.
Bà ấy đã để lại một thông điệp được nhúng vào mana trong lõi của em, nhưng nói
với em rằng em sẽ chỉ có thể nghe thấy nó khi em đã vượt qua mức lõi trắng. Đó
là một sự cám dỗ mà bà ấy biết rằng em không thể cưỡng lại, một cách để thúc đẩy
em vươn đến một cấp độ vượt xa những gì mà hầu hết các pháp sư từng đạt được.”
“Và cậu đã làm được phải
không?” Chị Varay hỏi, bàn tay chị như bộ móng vuốt buốt giá bao quanh tay tôi.
“Đó có phải là cách cậu đã nhận được sức mạnh aether của mình không?”
Tôi lắc đầu. “Lõi của em đã
bị vỡ nát, giải phóng thông điệp đó ra trước thời điểm của nó, và cơ hội vượt
qua lõi trắng của em không còn nữa. Nhưng” — Tôi kích hoạt chiêu Realmheart,
nhìn thấy những những ấn (rune) màu tím oải hương rực rỡ đang phản chiếu trong
tròng mắt của chị Varay — “lõi của các anh chị thì không, và em tin rằng
chính gã Kezess đã lại cho chúng ta chìa khóa để mở ra tiềm năng thực
sự của mọi người.”
Ghi chú của tác giả: Đề phòng bạn quên thì: Tôi
muốn để lại một lời nhắc nhở thân thiện rằng sẽ không cập nhật chương vào tuần
tới!
Tôi sẽ dành cả tuần tới để
chuẩn bị — cả về cảm xúc và thể chất — cho sự kiện Emerald City Comic Con, nơi
tôi hy vọng sẽ gặp một số độc giả của mình ở đó. ^^
Đây là một bước tiến lớn đối
với tôi, vì vậy tôi không kém phần hào hứng và hồi hộp. Sẽ có rất nhiều nội
dung hậu trường lẫn nội dung Hỏi-Đáp đến từ sự kiện Comic Con này (chủ yếu liên
quan đến truyện tranh), nhưng tôi hy vọng các bạn đều thích nó!
Tác giả: TurtleMe
Người dịch: Nightmoonlight