(Tên gốc của chương 387: Long-Worn Shackles)
GÓC NHÌN CỦA ARTHUR LEYWIN
Những dấu vẽ màu tím tạo
thành từ chiêu Realmheart đang đốt nóng trên da khi tôi kích hoạt Godrune này.
Giờ tôi có thể nhìn thấy và cảm nhận được mana một lần nữa, cảm giác mình được
kết nối với không gian vật lý xung quanh theo cách mà trước đây tôi không làm
được tính từ khi thức dậy trong Khu Tàn Tích (Relictomb).
Mùi mồ hôi và mùi ôzôn, cảnh
những vi hạt mana lăn tròn và nhào lộn ra khỏi lõi mana của Mica, tiếng thở nặng
nhọc của anh Bairon, và thậm chí cả sức nặng từ chính cơ thể tôi đè xuống mặt đất
bên dưới, tất cả đều hòa quyện vào nhau như một tấm thảm được dệt nên bởi các
cung bậc cảm xúc đan xen.
Tôi tập trung nhìn vào lượng
mana đang chạy dọc theo cánh tay chị Mica rồi lao vào cái búa lớn đang vung bằng
cả hai tay của chị ấy. Cái búa trở nên dày cộm hơn và cứng lại, thậm chí còn phồng
to lên rồi lớn hơn nữa một cách bất thường. Âm thanh của sấm sét va chạm rồi dẫn
điện lan ra khắp hang động, và cái búa vỡ tan, nổ thành hàng triệu mảnh bén như
dao.
Mica lăn dưới ngọn giáo bọc
tia sét khi các mảnh đá vỡ lúc đang bay thì rung lên và dừng giữa không trung,
quay lại lao vào mục tiêu của chị ta. Có sự tĩnh điện nổ lốp bốp đang lan tỏa
trong không khí, và những mảnh đá vỡ bị nhiễm từ, va vào nhau và chuyển hướng
bay. Một số ít tiếp cận được anh Bairon thì nổ tung trước rào chắn mana của anh
ta.
Đằng sau một lớp băng trong
suốt bảo vệ chúng tôi khỏi bất kỳ phép thuật nào lạc đạn, chị Varay đứng bên cạnh
tôi đang cử động nhẹ. Đôi mắt chị ta nhắm hờ khi tập trung vào việc cảm nhận
lõi mana tỏa sáng của hai Lance và độ mạnh từ khả năng vận mana của họ nhiều
hơn là tập trung các khía cạnh vật lý và kĩ thuật đánh trong trận giao tranh
này. “Tôi cảm thấy lõi của cả hai người họ đều mạnh. Lượng mana gần lấp đầy lõi
rồi.”
Tôi cắn phải lưỡi. Đúng là họ
đã gần quay lại như lúc sức mạnh ở mức sung mãn nhất, nhưng…
“Nhưng toàn bộ sức mạnh của
họ còn không làm sứt mẻ nổi một cháu asura mới biết đi,” Regis cắt ngang, nhìn
lên từ trong góc nơi cậu ta đang nằm, không quan tâm đến trận đấu.
Không khí trong phòng hóa
thành nặng nề khi trọng lực tăng lên. Trở nên vất vả, anh Bairon đang cố chống
chọi với trọng lượng khổng lồ từ chính cơ thể mình, đang đe dọa kéo anh xuống đất.
Cát xoáy quanh anh ta và cứng lại thành những tảng đá rồi bay ngay tức khắc về
phía anh ấy.
Một tiếng sét khác làm rung
chuyển cả hang luyện tập, mana lôi hệ rung chuyển và lóe ra tia sáng trong tầm
nhìn được tăng cường từ chiêu Realmheart của tôi.
Những mảnh đá rung lên nhưng
không vỡ, hình dạng của chúng bằng cách nào đó dường như nhòe đi vô định trong
giây lát, rồi chúng đập vào anh ta. Thay vì các cục đá rắn nhào thẳng vào tấn
công, thì chúng lại phát nổ quanh người anh Bairon như bùn - hay có thể là cát
lún - quấn lấy anh ấy từ đầu đến chân. Lõi của chị Mica lại rung đập mạnh khi
giải phóng mana, và cát biến thành đá, đông cứng lại quanh cơ thể anh ta.
Mắt anh Bairon giãn ra, và
tóc trên đầu dựng đứng.
Một lớp áo choàng sét cuộn
quanh người anh, và tia sét xuyên qua đá, khiến nó vỡ ra trước khi có thể cứng
lại hoàn toàn.
Sét lan ra như mạng nhện khắp
sàn nhà với tâm là chỗ dưới chân anh, tạo ra nhiều tia chớp nhỏ riêng lẻ bắn
lên từ mặt đất để phá hủy các mảnh đá mà chị Mica cố gắng điều khiển, bao gồm cả
chiếc búa đang hình thành một lần nữa trên tay cô.
Các dòng điện — có thể nhìn
thấy dưới dạng các chuỗi dòng chảy mana màu vàng sáng — chạy lên cánh tay chị
Mica, khiến nắm tay chị ta co thắt lại và siết chặt quanh cây búa. Mắt mở to
khi cơ bắp nhanh chóng bị tê liệt do quá tải điện năng. Nhưng ngay cả khi chị ấy
đột ngột đảo ngược trọng lực và khiến anh Bairon lao thẳng lên trần nhà, nó vẫn
chưa đủ để phá đòn phép của anh ấy.
Với việc sử dụng chiêu
Thunderclap Impulse, anh Bairon có thể phản xạ với độ chính xác gần như tức
thì. Anh ấy xoay người trên không trung, ổn định bản thân để lơ lửng lộn ngược,
và kích hoạt lượng điện lớn tỏa ra như mạng nhện cháy sáng khắp sàn.
Mỗi tia điện năng nhỏ lại tạo
thành một tia chớp bé xíu đánh ra dường như ngẫu nhiên theo một hướng nào đó,
xé toạc các bức tường và trần nhà để tạo thành một loạt các tia sét hình xoáy
lung tung chạy hỗn loạn đầy hang động.
Tôi cảm thấy mana ở rất gần,
gần đến mức như thể tôi có thể chạm vào nó. Ký ức về mặt cơ học vẫn còn đó, và
cơ bắp như co giật khi tôi theo dõi trận chiến, giống một người lính cụt một
tay cố gắng nhấc cánh tay bị mất lên để tránh đòn.
Thở dài một tiếng, tôi liếc
nhìn cánh tay băng của chị Varay tạo từ phép thuật. Một dòng mana loại deviant
(dị thuật) băng hệ tuy mảnh khảnh nhưng vững vàng đang chảy từ tốn ở lõi chị ấy
ra cánh tay để duy trì hình dáng của nó. Nếu chị ta có thể dùng mana để nhân
đôi hiệu quả so với việc dùng một cánh tay vật lý, thì liệu tôi cũng có cách
nào đó để tái tạo những gì đã mất không?
Một làn khói lờ mờ từ cát mịn
bay lên lấp đầy hang, hấp thụ điện và vô hiệu hóa đòn phép của anh Bairon. Bàn
tay còn lại của chị Mica đang trồi ra một cái búa mới, được làm từ sắt xỉn màu.
Mana sét làm tê liệt cơ bắp của cô ấy đã bị rút ra khỏi người và chuyển qua chiếc
búa kim loại đó. Tóc anh Bairon xẹp xuống, báo hiệu chiêu Thunderclap Impulse kết
thúc, ngay khi chị Mica ném một khúc sắt nhiễm điện vào người anh Bairon. Cùng
lúc đó, trọng lực lại lật ngược, và lần này thân anh ấy bị giật lùi ra sau va
vào bức tường gần nhất.
Tôi tập trung vào cách
aether trong không khí phản ứng hoặc không phản ứng với mana. Nó dường như hoàn
toàn phớt lờ mana, đồng thời cùng lúc chiếm các chỗ trong không khí mà không bị
chiếm bởi mana. Không phải là aether tránh né hay định hình mana, không hẳn vậy.
Nếu nghĩ rằng mana và aether là hai lực định hình lẫn nhau thì chính xác hơn,
giống như một dãy núi hình thành từ chính sự lan dần của dãy núi trong khi sự
lan dần của dãy núi đó xuất hiện lại là do quá trình xói mòn.
Tuy nhiên, giống như phép ẩn
dụ về nước và cái cốc của bà Myre, ý tưởng này thất bại do không nêu ra được
cách giải thích mối quan hệ giữa hai lực này một cách đúng đắn hơn.
Bị ghim chặt vào tường, anh
Bairon không phản ứng kịp để tránh chiếc búa kim loại nhiễm điện của chị Mica.
Nó đâm sầm vào anh ta, và anh ấy bị mất hút trong một đám bụi và xà bần.
Các vi hạt mana có thể nhìn
thấy đang tan biến dần khi sự tập trung của tôi vào Realmheart không còn nữa.
“Bairon?” chị Varay hỏi, bước
ra khỏi lớp băng bảo vệ trong suốt.
Một tiếng ho khan phát ra từ
trong lớp bụi, sau đó bóng dáng anh Bairon xuất hiện trở lại, hơi khom người.
Anh ta đứng thẳng người và bẻ vai bẻ cổ khi sải bước đi trở lại chỗ đất trống của
sân tập. Phía sau anh ta, lớp bụi mờ dần, để lộ một lỗ hổng trên tường hang sâu
đến vài thước. “Đánh hay lắm, Lance Mica. Tôi cảm thấy gần như hồi phục. Cô dường
như cũng vậy.”
Chị Mica uốn cong cánh tay vẫn
cầm chiếc búa quá khổ của mình. “Vâng, Mica cảm thấy tốt hơn nhiều.”
Các Lance đã bị vắt cạn sức
đến mức cơ thể họ phản ứng ngược dữ dội trong cuộc chiến với Taci, với những vết
thương sẽ để lại dấu ấn cho suốt phần đời còn lại của họ. Mặc dù những lớp vẩy
quanh mắt Mica đã rụng dần đi để lộ những vết sẹo sáng rõ, nhưng con mắt sẽ
không bao giờ lành lại được.
Cánh tay băng ma thuật của
chị Varay và viên đá mã não nặng nề nằm trong hốc mắt của Mica sẽ ở lại với họ
như lời nhắc nhở rõ ràng về cái chết cận kề của họ, nhưng đối với tôi, chúng là
một điều hoàn toàn khác.
Cả bốn Lances cùng nhau mà
không thể đánh bại được Taci. Thậm chí chị Aya đã hy sinh mạng sống chỉ để làm
hắn ta chậm lại. Và Taci chỉ là một thằng nhóc theo tiêu chuẩn của tụi asura.
Làm sao tôi có thể mong đợi họ có thể chống lại những kẻ như Aldir hay Kordri,
chứ đừng nói là cỡ Kezess và Agrona?
Thật sự là chúng tôi đang
chuẩn bị cho một cuộc chiến chống lại các vị thần, nhưng chúng tôi trước đó còn
thua cuộc chiến chống lại con người nữa, và những pháp sư mạnh mẽ nhất của
chúng tôi chẳng những không phát triển được thêm sức mạnh mà còn không thể làm
thế.
‘Vẫn còn đó Số Phận (Fate),’
Regis nhắc lại cho tôi nhớ. ‘Có lẽ họ sẽ không phải chiến đấu nếu chúng ta chuồn
vào Khu Tàn Tích.’
(Nguyên văn: “There is still
Fate”. Từ “Fate” được tác giả viết hoa một cách cố tình như một danh từ riêng,
không nhớ rõ là trong mấy trăm chương trước có đề cập đến Fate này hay không,
hay chỉ là số phận và định mệnh nói lấp liếm chung chung như cách nói của Rinia
hay lúc Myre mô tả sức điều khiển của aether)
Hoặc là, vào lúc chúng tôi
chạy vào đó, tôi nghĩ lúc đó chẳng còn thế giới nào để cứu nữa, cảm thấy sự phiền
muộn u ám đang len lỏi bao trùm lấy tâm trạng tôi.
Thay vào đó, tôi quay lại với
các Lance và nở một nụ cười trên môi. “Thế anh Bairon, làm sao mà chị Mica chỉ
có một con mắt mà có thể thắng vậy?”
Một nét cau có thoáng nhanh
qua mặt anh Bairon, nhưng nó nhanh chóng chuyển thành một nụ cười nhăn nhó khi
anh ấy nhìn vào biểu cảm của tôi. “Chà, cậu biết cô ấy sẽ gắt gỏng thế nào khi
cậu không để cô ấy giành chiến thắng mà.”
Chị Mica giậm chân và khoanh
tay khiến cô ta trông trẻ con hơn bao giờ hết. “Anh đã để tôi thắng, phải
không? Có lẽ nếu anh linh hoạt hơn, Bai, anh đã không kết thúc bằng cách vùi
sâu vào tường mười feet.”
Tôi cười khúc khích và cảm
giác chua xót đang tan dần. Ngay cả một bên môi chị Varay cũng nhếch lên trông
giống nụ cười.
“Tuy nhiên, em tò mò rằng
anh đã làm gì với những tia sét nhỏ tỏa ra trong khi anh đang dùng chiêu
Thunderclap Impulse?” Tôi hỏi. “Em không thể theo kịp các chuyển động vi mô khi
phản ứng của anh quá nhanh.”
Anh Bairon hơi quay đầu sang
một bên tỏ vẻ ngạc nhiên khi nhìn tôi. “Cậu có để ý à? Nhưng làm thế nào? Tôi…”
Anh ấy tự ngắt ngang lời bản thân bằng một nụ cười kiểu không tin nổi. “Thôi đừng
bận tâm, không có gì cậu làm được khiến tôi ngạc nhiên nữa. Đối với câu hỏi của
cậu, tôi có thể mở rộng thêm khoảng cách cảm nhận của các giác quan mình thông
qua mana lôi hệ khi sử dụng chiêu Thunderclap Impulse.”
“Vậy là thậm chí anh đã cải
thiện được phép thuật của tôi. Ấn tượng đấy.”
Chị Mica khịt mũi. “Nếu anh
định giỏi mỗi một trò thôi, thì tốt nhất đó nên là trò hay đấy nhé.”
“Có lẽ đầu cô đã phát triển
quá to so với cơ thể quá bé đấy,” anh Bairon nói, uốn hai bàn tay và tạo ra
dòng điện chạy giữa các kẽ các ngón tay. “Tôi nghĩ rằng ta cần một trận tái đấu.”
“Thực ra,” chị Varay cắt
ngang, nhướng mày về phía tôi, “Tôi hy vọng Arthur có thể đồng ý đấu với tôi.
Đã rất lâu rồi chúng ta không đấu với nhau. Tôi biết tôi đang nói thay cho cả
ba người chúng tôi khi nói rằng chúng tôi muốn xem xét kỹ hơn khả năng của cậu.”
Tôi nghĩ về điều này, rồi lắc
đầu. Mặc dù tôi biết rằng tôi cần phải giúp các Lance lớn mạnh hơn - bằng cách
nào đó - nhưng tôi không nghĩ rằng chiến đấu là một cách. “Thực ra, tôi chỉ
đang kiếm cớ cho bản thân thôi. Tôi đang chờ Gideon làm điều gì đó, và tôi muốn
đi kiểm tra tiến triển từ nghiên cứu của ông ấy.”
“Đã hiểu,” chị ta trả lời.
“Tôi cho rằng tôi nên đi gặp hai Lãnh chúa Earthborn và Silvershale để kiểm tra
những thay đổi về phòng thủ mà họ đang thực hiện đối với thành phố.” Tôi có thể
cảm nhận được sự lưỡng lự che giấu khá nhiều trong giọng nói của chị Varay. Khi
tôi nở một nụ cười gượng gạo, chị thở dài. “Họ cứ kèn cựa nhau thật là mệt mỏi.”
Tôi cười khúc khích và nói,
“Chà, chúc may mắn với điều đó.” Tôi vẫy tay chào tạm biệt ba Lance, sau đó bắt
đầu đi xuống đường hầm dài dẫn lại về thành phố Vildorial, nơi tôi đi vòng
quanh thành phố để đến Viện Earthborn. Regis lặng lẽ đi theo sau tôi.
Cổng vào trường được canh
gác, nhưng những người lùn ở đó chỉ thận trọng quan sát khi chúng tôi đi ngang
qua. Các hành lang bằng đá chạm khắc ở trường ồn ào với tiếng ầm ầm liên tục của
máy móc, tôi cảm thấy mình ngập trong bất kỳ tiếng ồn nào mà phòng thí nghiệm của
Gideon có thể tạo ra, và cuối cùng, tôi phải hỏi đường từ một giảng viên đi
ngang qua để dò tìm xem ông ta đang ở đâu.
Việc tìm ông ấy dẫn tôi đi
sâu vào trung tâm của ngôi trường nơi các hành lang đơn sơ và không được trang
hoàng, trông giống như nhà tù hơn là một cơ sở giáo dục. Ở bên phải tôi, những
cánh cửa bằng đá nặng nề xếp đều dọc hai bên hành lang, trong khi ở bên trái những
cánh cửa cách nhau xa hơn nhiều. Tôi tìm thấy mục tiêu của mình ở nửa cuối hành
lang.
Cánh cửa hé mở một phần, lý
do có lẽ liên quan đến cái nóng khô rát và mùi thối như có gì đang cháy phảng
phất ra hành lang, giọng nói gay gắt của Gideon vang lên cùng nó.
“Bahhh. Ta bắt đầu từ đầu
nhé. Emily, cô đã viết ra tất cả những điều này chưa?”
“Viết ra cái gì chứ, Giáo
sư? Ta đã không rút ra thêm được bất cứ điều gì mới trong nhiều giờ rồi,” cô
nói, giọng điệu đầy vẻ không phục tùng và trêu chọc.
“Đừng gọi tôi như vậy, cô
gái, và chỉ cần… viết ra tất cả những gì tôi nói.”
“Vâng, thưa ngài,” cô ấy trả
lời, cái đảo mắt của cô ta thực sự có thể cảm thấy từ ngoài hành lang.
Tôi lách qua cửa và đứng dựa
vào khung cửa, nhưng không thông báo sự hiện diện của mình. Regis thò đầu vào
bên cạnh tôi. “Ở đây có mùi mấy thằng ngốc này.”
Gideon và Emily đang đứng cạnh
một cái bàn kim loại được phủ một lớp da rách rưới bị cháy xém. Một số vật tạo
tác dùng để chiếu sáng treo lơ lửng trên bàn, chiếu ánh sáng rực rỡ xuống một số
vật tạo tác khác đã được đặt cẩn thận trên bàn.
“Chúng ta biết rằng—”
“Nghĩ đi,” Emily ngắt lời.
“—rằng cây trượng hắc thạch
là thiết bị chính được sử dụng trong một nghi lễ gì đó mà chúng ta được biết là
‘lễ ban tặng’ (bestowal ceremony), một nghi lễ sử dụng những vật tạo tác này để
ban cho các pháp sư ở Alacrya ‘những cổ tự’ —”
“Một dạng phép thuật,” Emily
nói.
“—Nhưng chỉ đơn giản truyền
mana vào cây trượng sẽ không gây ra phản ứng nào ngay tức khắc hết.”
Nằm dọc theo chiều dọc cái
bàn là một cây trượng có gắn hắc thạch, giống như cái mà tôi từng thấy ở Thị trấn
Maerin trong buổi lễ ban tặng của họ. Viên ngọc tinh thể gắn ở đầu trượng sáng
lấp lánh bốn màu lục, lam, vàng, đỏ. Có một điều vốn không thể nhìn thấy bằng mắt
thường, nhưng rõ ràng như ban ngày đối với tôi, là sự tụ tập các vi hạt aether
chứa trong cục tinh thể này.
Vì tò mò, tôi đã kích hoạt
Realmheart.
Hơi ấm tràn qua lưng, dọc
theo hai cánh tay và trong tròng mắt tôi khi godrune sáng lên. Thế giới quanh tôi
thay đổi nhẹ khi nhìn mana trở nên rõ ràng. Mana thổ hệ bám vào tường, sàn, trần
nhà, những thứ đều bằng đá. Sự chuyển động của mana phong hệ bị liệng ra không
khí xung quanh trong hình dạng các dòng chảy tinh tế di chuyển ra từ nơi bắt
nguồn là mana hỏa hệ bùng cháy trong một vài lò rèn nhỏ lửa được xây ăn sâu vào
trong tường.
Emily căng thẳng, và tôi có
thể thấy da gà nổi trên cánh tay khi cô ấy đứng từ phía bên kia phòng. Cô ta chậm
rãi quay về phía cửa. “Arthur, cái gì v…?”
Gideon quay lại một giây sau
đó. Ông ta đầu hơi nghiêng sang một bên và nhìn tôi chằm chằm. “Đi dự tiệc hả
nhóc?”
Tôi cười khẩy trước câu nói
đùa, nhưng tôi tập trung vào cây trượng: các vị hạt mana bị nén dày đặc khiến
nó phát sáng, và ngay cả khi không được kích hoạt, cây trượng dường như đang
hút nhiều mana hơn theo kiểu hút từng giọt nhỏ chậm chạp vào chính nó.
Mana cũng đeo bám vào những
vật dụng khác trên bàn, nhưng có thể cảm nhận được điều này không cho tôi biết
điều gì mới, vậy nên tôi truyền không truyền aether vào godrune nữa. Các vi hạt
mana nhạt hình dần đi cho đến khi chúng trở nên vô hình lần nữa, và khả năng cảm
nhận về chúng đã bị cắt đứt.
Tôi chớp mắt vài lần khi điều
chỉnh mắt theo sự thay đổi trong tầm nhìn. “Vậy là có vẻ như nghiên cứu không
được tiến triển cho lắm nhỉ?”
Gideon và Emily nhìn nhau,
và Gideon gãi đôi lông mày đang mọc lại gần phân nửa. “Thật khó để xếp các câu
đố với nhau khi ta còn không biết câu đố nó trông như thế quái nào,” ông ta càu
nhàu, vẫy tay với các đồ tạo tác. “Có lẽ nếu cậu đủ tử tế đến thăm chúng tôi sớm
hơn một chút…”
“Chà, bây giờ tôi ở đây rồi
nè,” tôi nói khi băng qua phòng đến chỗ cái bàn. “Và tôi đã mang theo một trợ
lý nghiên cứu.” Tôi ra hiệu cho Regis, cậu ta đang nhào tới và đặt hai chân trước
lên bàn. “Hiểu được công nghệ này là điều rất quan trọng nếu chúng ta hy vọng
có thể sánh ngang với người Alacrya, chứ chưa nói tới chuyện so sánh với đám
asura.”
“Ừ đúng như cậu nói bóng gió
đấy,” Gideon nói một cách gượng gạo, ánh mắt kinh ngạc của ông ta nhìn vào con
sói bóng tối đang trầm ngâm nhìn xuống các đồ tạo tác. “Tôi nghĩ” - ông ta liếc
Emily bằng một cái nhìn sắc bén—” những chữ cổ tự (rune) được dệt trong áo
choàng nghi lễ này có liên quan gì đó đến việc kích hoạt quyền trượng. Nó giống
như chìa khóa vậy. Nhưng có một chuỗi các cổ tự không hiển thị rõ ràng ngay, và
tôi không muốn thử những thứ này một cách mù quáng. Ai đó có thể bị thương, hoặc
tệ hơn là chúng ta lỡ tay phá hủy chiếc áo choàng.”
Lông mày Emily nhướng lên
khi cô ấy xem xét lời người cố vấn của mình. “Các ưu tiên của ông dường như
không phù hợp với nhau,” cô ta lẩm bẩm.
“Tôi không biết, tôi nghĩ
tôi đồng ý với Giáo sư Không Lông Mày (Professor No Brows),” Regis nói cụt lủn,
gợi ra một tiếng cười khúc khích từ Emily. “Những chiếc áo choàng chắc chắn là
cần thiết.”
“Tôi nghĩ nên nói cảm ơn nhỉ,”
Gideon càu nhàu.
“Những ký ức cậu có từ Uto
có chứa điều gì hữu ích về lễ ban ấn không?” Tôi hỏi.
Đôi lông mày kiểu chó con của
Regis đan vào nhau khi cậu ta cố gắng phân tích sự pha trộn giữa những suy nghĩ
và ký ức mà đã kết hợp lại từ thuở ban đầu để mang lại cho cậu ta ý thức. “Uto
đã từng thấy hàng trăm lễ ban tặng, thường là các sĩ quan thứ hạng cao hoặc đám
thượng huyết tộc. Nhưng chỉ những quan chức mới thực sự tiến hành nghi lễ, và
tôi cho rằng đám Instiller và gia tộc Vritra, lũ thiết kế ra những thứ này, mới
được dạy những chi tiết cụ thể.”
“Và cái cuốn sách kia không
giúp ích gì à?” Tôi hỏi Gideon.
Bên cạnh chiếc áo choàng
nghi lễ màu đen là một pho sách dày, vỏ đẹp. Gideon với tay lấy và mở ra một
trang ngẫu nhiên. “Đó là một chuỗi danh mục gồm các ấn nhiều loại như mark,
emblem, vân vân. Mấy cái ấn được ban bằng cây trượng này, ấn nào hiện ra thì được
viết lại cụ thể vào đây. Hấp dẫn đấy, nhưng không giúp ích được gì trong việc sử
dụng cái thứ này.”
“Tôi đoán là đã hy vọng quá
nhiều rằng cái món này sẽ đi kèm cuốn sách hướng dẫn,” tôi nói.
Mõm của Regis nhăn lại. “Tôi
nghĩ cậu đang cố tỏ ra hài hước, nhưng có cái cuốn như thế tồn tại thì cũng dẹp
luôn cái mục đích tổ chức một nghi lễ siêu bí mật đi.”
“Ồ, tốt, cậu ta cũng xỉa xói
cả cậu luôn,” Gideon nói, nhìn Regis một cách kinh ngạc. “Tôi đã lo lắng rằng
thú triệu hồi của cậu cũng chỉ là một dạng kịch câm do cậu tự nói, và tôi đang
tự hỏi mình đã làm gì sai để bị cậu xỉa xói.”
“Tôi không có xỉa xói nhá,”
Regis trả lời kiểu bào chữa bản thân. “Thấy gì nói đó thôi.”
Tập trung nào, tôi nghĩ điều
đó với Regis, sau đó chuyển sự chú ý của tôi trở lại các món đồ tạo tác.
Chiếc nhẫn không gian đa chiều
màu đen trơn bóng mà Alaric đưa cho tôi cũng ở trên bàn. Bên cạnh đó, một chuỗi
hạt nhỏ được xếp thành một cuộn nằm giữa chiếc nhẫn và cuốn sách. Các hạt có
màu trắng pha vàng xỉn, và tôi ngay lập tức nghĩ rằng chúng trông giống như
xương.
“Đúng vậy,” Regis nói một
cách nghiêm túc, ngọn lửa trên bờm nhào lộn trong sự kích động. “Những mảnh
xương được chạm khắc của người djinn cổ, những người mà hài cốt họ bị đánh cắp
khỏi Khu Tàn Tích.”
Tôi cẩn thận nhặt vật tạo
tác này lên và để các hạt lọt qua kẽ tay. Những đường rãnh mờ làm biến dạng bề
mặt của xương nhẵn hầu như khó nhìn. Tôi đẩy aether vào mắt mình và nheo lại. Mặc
dù hầu hết aether trong môi trường xung quanh chảy theo hướng tôi đã dự đoán được,
nhưng có một số hạt aether bị trôi ra, bị kéo về phía chiếc vòng cổ.
Tôi nghĩ tôi đã hiểu.
“Công nghệ này chắc hẳn đã
được đồng sáng tạo từ các djinn — những pháp sư cổ đại — và yêu cầu một vài khả
năng vặt để truyền dẫn aether,” tôi nói, lăn tròn một hạt giữa các ngón tay.
“Tôi không hiểu ý cậu,”
Emily nói, nhìn từ tôi sang Gideon.
Tôi cẩn thận đặt lại chiếc
vòng cổ lên bàn.
Regis cúi xuống ngửi khúc
xương cũ. “Hầu hết những tiến bộ về công nghệ của Alacrya đều đến từ các nghiên
cứu của gia tộc Vritra về những hầm ngục vô tận, đầy rẫy quái vật được gọi là
Khu Tàn Tích (Relictombs). Nơi đó có chức năng phân nửa là lăng mộ, phân nửa là
nơi tổ chức lễ hội rùng rợn, nhưng nơi đó lại là một kho kiến thức cổ xưa đầy
đủ của người Dijin, cô hiểu không? Nhưng người djinn chủ yếu sử dụng phép thuật
của họ với aether, thứ mà người Alacrya không thể sử dụng. Những hạt làm từ
xương người djinn đã chết này đang thu hút aether.”
“Và aether là thứ bị mô phỏng
dung tích để dùng cho việc điều khiển mana trực tiếp,” Gideon gợi ý thêm. Ông
ta nắm lấy mấy cái áo choàng và giũ chúng thẳng xuống, sau đó dùng đầu ngón tay
bắt đầu lần theo những chữ cổ tự được thêu vào lớp lót bên trong áo. “Tôi không
hoàn toàn thông thạo, và các chữ cổ tự này rất phức tạp, nhưng tôi tin rằng chiếc
áo choàng phục vụ một mục đích tương tự cái vòng, nhưng chỉ dành cho mana.”
Tôi kéo một góc của tấm vải
này xuống để nhìn rõ hơn. “Ông nói đúng. Tôi cá rằng những chiếc áo choàng này
cho phép truyền dẫn cả bốn loại mana nguyên tố. Không phải theo kiểu một người
niệm phép tứ nguyên tố, nhưng khi kết hợp với vòng cổ thì đủ để kích hoạt một
thiết bị đòi hỏi có đủ các thuộc tính thổ, khí, hỏa, thủy và aether để sử dụng
đúng cách.”
Gideon gõ ngón tay lên bàn.
“Nó có vẻ phức tạp một cách không cần thiết.”
“Nhưng có lẽ đó mới là mục
đích của mấy món này,” Emily gợi ý, mặt cô rạng rỡ. “Ý tôi là, hãy nghĩ về điều
đó. Nếu sức mạnh phép thuật nhận được chỉ đơn giản như đi quanh vẫy vậy một món
đồ tạo tác”- cô ấy chỉ vào cây trượng - “thì bất cứ ai kiểm soát được sự ban tặng
này sẽ kiểm soát mọi thứ.”
Regis trả lời: “Và bài học vỡ
lòng ta rút ra được từ việc nghiên cứu cái đám bạo chúa tham quyền cố vị này là
bọn chúng không thích chia sẻ quyền lực.”
Tôi nói tiếp dòng tư duy của
Regis. “Những lễ ban tặng kiểu này cho phép Agrona đào tạo ra các pháp sư và
nâng cao độ tinh khiết của lõi họ mà không tốn nhiều công sức, nhưng một công
nghệ giống vậy sẽ cho phép, ví dụ như, một trong những Chúa tể dưới quyền hắn
làm điều tương tự khi cố gắng thách thức quyền lực của hắn.”
Gideon ngâm nga suy nghĩ
trong họng và cúi xuống bàn, nhìn chằm chằm vào cây trượng. “Bằng cách kiểm
soát những ai hiểu cách ghép các mảnh lại với nhau để dùng như thế nào và giới
hạn quyền tiếp cận các vật tạo tác phụ thuộc lẫn nhau, thì ta nắm được quyền kiểm
soát toàn bộ tiến trình trao ấn.”
“Mặc dù…” Emily cắn môi nói
ngập ngừng. “Nếu những vật tạo tác này có thể bị đánh cắp đơn giản…”
“Ồ, chắc chắn có những cách
thức bảo vệ phụ trợ đi kèm,” Regis nói, nhảy xuống khỏi bàn. “Tạo ra sự thiếu
hiểu biết một cách tỉ mỉ như thế chỉ là một phần của nó thôi. Chỉ riêng sự dọa
dẫm về một cái chết kinh hoàng là đủ đối với hầu hết mọi người rồi. Nhưng tôi
dám lấy cặp sừng của mình ra cá rằng có một số loại phòng hộ nào đấy hoặc bẫy
được phủ lẫn vào tất cả các công nghệ này để dành cho bất kỳ ai cố gắng ăn cắp
nó và sử dụng nó chống lại Agrona.”
Tất cả chúng tôi đều im lặng
một lúc khi suy nghĩ về ý kiến này.
Sau đó, sự im lặng biến mất
khi một vụ nổ làm rung chuyển các bức tường và kéo theo những vệt bụi từ các
khe đá trên trần nhà xuống.
Chiếc bờm rực lửa của Regis
dựng đứng khi cả hai chúng tôi cùng quay về phía cửa. Khói màu cam pha xám đang
bao trùm bên ngoài sảnh.
Gideon cười khúc khích. “Đừng
lo lắng, đó chỉ là những thử nghiệm mới mà tôi đang cố gắng cho cậu thấy.”
Không cần đợi tôi công nhận
lời nói của ông ta, Gideon đi ra ngoài hành lang và hướng về nguồn vụ nổ. Emily
nhún vai và ra hiệu cho chúng tôi đi theo. Regis và tôi nhìn nhau, do dự để lại
chiếc áo choàng và chiếc vòng cổ với những ẩn ý mà chúng tôi vừa phát hiện,
nhưng vẫn đi theo Emily ngay sau khi cô ấy khóa cửa phòng thí nghiệm sau lưng.
Không xa phía dưới hành
lang, làn khói dày đặc màu đỏ cam đang tỏa ra từ những cánh cửa đá nặng nề.
Ngay bên trong, hai pháp sư người lùn đang sử dụng thứ trông giống như chiếc áo
choàng bị cháy xém để xua làn khói tồi tệ đi.
Họ sững sờ khi nhận thấy
Gideon đang dựa vào khung cửa. “Hở, xin lỗi, thưa ngài, một tia lửa từ một
trong số mấy vũ khí lan qua cái chén to chứa ni-tơ tinh khiết.”
Gideon đang cười toe toét,
và ông ta hít một hơi thật sâu làn khói độc hại đang bắt đầu tỏa ra. “Mấy người
không thể làm món ốp-lết mà không gây ra vài vụ nổ à!”
Regis cười khúc khích. “Cậu
biết không, tôi bắt đầu thích cái lão này rồi đấy.”
Emily mệt mỏi chùng xuống.
“Tuyệt chưa. Giờ giống như có tận hai người quái dị giống nhau…”
Nhà phát minh già vẫy chúng
tôi vào phòng, sau đó bước đi nhanh qua phòng thí nghiệm đến dãy cửa lớn thứ
hai. “Các nguyên mẫu không hoàn toàn ổn định, như cậu thấy đấy, nhưng tôi thực
sự nghĩ rằng cậu sẽ thích những gì chúng tôi đang làm.”
Ông ta kéo mạnh cửa, để lộ
ra một căn phòng lớn hơn nhiều. Nó giống như một khu chiến tranh vậy. Những bức
tường đá trơ trụi cháy đen cả trăm chỗ. Dọc theo một bức tường, một chiếc bàn
kim loại xước phay đặt một số thiết bị trông kỳ lạ.
“Ta da!” Gideon chìa tay ra,
cười rạng rỡ với kho vũ khí.
Tôi bước tới chỗ cái bàn và
nhìn xuống một loạt các thiết bị hình ống dài, trông mơ hồ kiểu trộn lẫn lung
tung giữa một bên đặt khẩu súng hỏa mai cổ và bên còn lại đặt bệ phóng tên lửa
cầm tay hiện đại từ thế giới cũ của tôi. Chỉ khác là những thứ này cũng được khắc
lên một chuỗi các cổ tự truyền dẫn mana. “Chúng có phải là những gì tôi nghĩ
không đấy?”
“Nếu câu nghĩ chúng là vũ
khí có khả năng chuyển đổi năng lượng từ muối lửa (fire salts) của người lùn
thành những vụ nổ hủy diệt có khả năng thiêu rụi cả đám pháp sư lõi vàng, thì
chắc chắn là vậy,” Gideon nói, xoa hai tay vào nhau và cười toe toét như một
thiên tài ác quỷ trong mấy cuốn truyện tranh.
“Về mặt lý thuyết thì thế,”
Emily lầm bầm, nhìn những món vũ khí với vẻ chán ghét rõ ràng.
“Tôi gọi chúng là đại bác cổ
tự (rune cannons),” Gideon nói thêm, không để ý đến thái độ thiếu thiện cảm của
Emily.
“Tôi muốn một cái,” Regis
nói ngay lập tức, lưỡi thè khỏi miệng. “Không, làm hai cái đi. Nhanh lên,
Arthur, đeo chúng vào lưng tôi.”
“Chúng chưa được hoàn thiện,
nhưng khi chúng…”
“Bởi vì ‘chưa hoàn thiện’
ông ấy nói nghĩa là chúng thiếu ổn định và vẫn yêu cầu sự hiện diện của những
pháp sư có khả năng truyền cả lửa và gió vào nó. Emily chỉ ra khuyết điểm.
“Chúng khó sử dụng và cực kỳ nguy hiểm—”
“Mọi vấn đề chỉ ở chỗ đó
thôi, đúng không?” Gideon cáu kỉnh, trừng mắt nhìn trợ lý của mình. “Và những
chiếc áo choàng của lễ ban tặng thực sự đã cho tôi ý tưởng về cách ta có thể sử
dụng mana dạng tinh thể và những cổ tự từng loại cụ thể để khắc phục vấn đề
pháp sư. Ý tưởng của tôi là, nếu được huấn luyện tốt, bất kỳ ai cũng có thể sử
dụng chúng.”
Mặc dù tôi muốn — và đã lên
kế hoạch — giành chiến thắng trong cuộc chiến này, nhưng tôi hiểu rõ hơn Gideon
rất nhiều về những ảnh hưởng trên diện rộng của phát minh của ông ấy, cũng như
những rào cản đối với việc sử dụng nó. Vẻ do dự của tôi hẳn đã hiện rõ trên
khuôn mặt, bởi vì tôi thấy sự phấn khích của Gideon đang dần mất đi. “Vậy rút
cuộc là có chuyện gì?”
Tôi đã quyết định từ lâu rằng
bản thân mình không đứng giữa để trở thành bộ lọc rồi ra quyết định rằng cái
công nghệ nào của xứ Dicathen này nên bị thụt lùi hay cải tiến lên, nhưng tôi
không thể giữ suy nghĩ trong lòng mãi. “Tôi chỉ đang nghĩ về con tàu
Dicatheous.”
Emily khoanh tay và bắn cho
Gideon cái nhìn biện hộ. “Thấy chưa?”
Ông ta bĩu môi và đá ngón
chân xuống sàn. “Làm như tôi không nghĩ tới chuyện đó không bằng? Với một số biện
pháp bảo vệ thích hợp thì—”
“Còn về đào tạo?” Tôi hỏi, cắt
lời ông ta. “Chế tạo? Phân bổ? Ông đang nói về việc thay đổi hoàn toàn cách thức
Dicathen chúng ta tiếp cận chiến tranh.”
Gideon dựa người vào cạnh
bàn và bắt đầu gõ các ngón tay lên mặt bàn. “Đúng, đúng, nhưng để cân bằng sức
mạnh giữa hai phe Dicathen và Alacrya, cũng như giữa pháp sư và phi pháp sư, một
thay đổi quy mô lớn là cần thiết và chắc chắn phải có, đúng không?”
“Nghe có vẻ hơi đạo đức giả
khi lo lắng về việc giao vũ khí vào tay những người không phải pháp sư trong một
thế giới có những sinh vật một thân một mình đủ khả năng xóa sổ cả một quốc
gia,” Regis nói đế thêm.
“Chính xác,” Gideon nói, đập
mạnh tay xuống mặt bàn.
Tôi xem xét khẩu đại bác cổ
tự, cân nhắc cả lời của Regis và Gideon. Có lẽ sẽ có cách nào đó để tận dụng những
khám phá của Gideon mà không phải giao cho những người lính chưa qua đào tạo những
thứ vũ khí có thể làm nổ tung khuôn mặt cả của họ lẫn của chúng ta theo đúng
nghĩa đen.
“Nói thêm cho tôi nghe,” tôi
nói. “Đặc biệt là về muối lửa.”
Nhà phát minh lập dị đã đưa
ra lời giải thích nhanh chóng về nhiều khám phá của ông ấy và rất nhiều thí
nghiệm đã dẫn ông ta đến phát minh này, và khi nói chuyện, một ý tưởng nảy sinh
trong đầu tôi.
Mặc dù vậy, Gideon nói đúng.
Chúng tôi cần cách nào đó để làm cho những người lính không phải pháp sư của
chúng tôi trở nên hữu dụng hơn.
Ngay khi tôi vừa mở miệng giải
thích ý tưởng, một vụ nổ khác làm rung chuyển các đường hầm dưới lòng đất — cái
này nghe có vẻ ồn hơn và ở xa hơn. Tôi ném cho Gideon một cái nhìn dò hỏi.
Ông ấy chuyển ánh nhìn từ tôi sang Emily rồi quay lại tôi. Mặt ông ta tái đi. “Đó không phải trò của tôi.
Người dịch: Nightmoonlight